Tiếp theo là đọc các chương của cuốn sách (theo bản đang đưa lên của tờ Văn hóa Nghệ An). Sẽ bổ sung các chương dần theo tờ này.
1. Giới thiệu của Đinh Xuân Lâm (2012)
2. Cuốn sách của Hồ Mộ La.
Cụ thể như ở dưới.
---
Giới thiệu của Đinh Xuân Lâm
"
Cập nhật: 21/02/2012 16:02
Hồi tưởng về Cha tôi - Hồ Học Lãm do chính người con gái thứ hai của Cụ là Hồ Mộ La viết với tình cảm sâu lắng kết hợp với lòng cảm phục và tự hào về người cha thân yêu và đáng kính của mình.
Là câu chuyện kể về cuộc sống của những thanh niên Việt Nam sinh sống trong ngôi nhà cụ Hồ Học Lãm tại Hàng Châu (Nam Kinh - Trung Quốc) vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đó là những thanh niên theo lời kêu gọi của Cụ Phan Bội Châu trong phong trào Đông Du, đã hăng hái lên đường cứu nước.
Cuộc sống của cộng đồng người Việt lúc bấy giờ được xây dựng trên cơ sở lòng yêu nước, tinh thần tương thân tương ái, xem nhau như ruột thịt, tạo điều kiện cho nhau hoạt động cứu nước, bất chấp sự rình mò theo dõi, khủng bố của kẻ thù, họ đã gặp nhau ở mục đích cuối cùng là giải phóng nhân dân, khôi phục độc lập dân tộc.
Những câu chuyện kể tưởng đâu là nhỏ, nhưng thẫm đượm tinh thần nhân đạo, nhân văn cao cả, một lòng thương yêu và tin tưởng vào bạn bè, đồng chí. Trong ngôi nhà của Hồ Học Lãm, những người thanh niên yêu nước Việt Nam bấy giờ thường lui tới sinh sống, giúp đỡ nhau như anh em một nhà, mặc dù lúc đó đã có sự phân hóa ngày càng rõ rệt về quan điểm, lập trường cứu nước.
Cụ Hồ Học Lãm, người đứng đầu ngôi nhà đó là một sĩ quan trong quân đội Trung Quốc, không phải là đảng viên cộng sản, nhưng cụ sống như người cộng sản chân chính. Cụ đã chiến đấu suốt đời dâng hiến tất cả cho lý tưởng cao quý mà cụ đã lựa chọn là giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc.
Cuối cùng, sau khi Cách mạng Việt Nam thành công (1945), nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, lời Tuyên ngôn độc lập bất hủ vang vọng khắp năm châu bốn biển (2-9-1945), đã không chỉ thôi thúc nhân dân Việt Nam trong nước mà cả những người con thân yêu của Việt Nam ở nước ngoài (những kiều bào hải ngoại) cùng đem hết sức mình đóng góp vào sự nghiệp giữ nước và dựng nước, thì hai người con gái cùng bà mẹ già yếu là vợ cụ Hồ Học Lãm đã được tạo điều kiện về nước sống những ngày cuối đời trong tình cảm thân thương, đùm bọc của đồng bào, đồng chí. Đó chính là biểu hiện rực rỡ của tính nhân văn, tình nhân đạo cao cả của tình hữu ái giai cấp, tình đồng bào, đồng chí sâu nặng.
Cách mạng là một dòng sông lớn, hùng dũng đổ nước ra biển Đông. Cách mạng cũng là một con đường dài đầy chông gai gian khổ, trên đó có người giữa đường nản lòng, thối chí đã dừng lại, nhưng xu thế của đám đông là luôn luôn tiến về phía trước, quyết tâm đi tới đích cuối cùng là: Độc lập rủa Tổ quốc, hạnh phúc của dân tộc. Điều cần lưu truyền mãi mãi để trở thành một truyền thống lâu dài, cao đẹp, đó là lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đó cũng là tình nghĩa đồng bào, đồng chí. Và đó cũng chính là bài học lịch sử mà chúng ta có thể rút ra từ tập hồi ký xúc động được viết lên bằng lòng tin yêu và lòng tri ân đối với các thế hệ đi trước mở đường, khai lối, mà người Tổng công trình sư chính là Bác Hồ vô vàn tình yêu của chúng ta.
(Trích Lời giới thiệu GS.NGND Đinh Xuân Lâm)
"
http://www.hoisuhoc.vn/index.php/dnews/270/Doc-sach:-Hoi-tuong-ve-cha-toi,-Ho-Hoc-Lam.html
Cuốn sách của Hồ Mộ La
(1)
LỜI MỞ ĐẦU
Từ nhiều chục năm nay, tôi rất muốn tự tay viết một cái gì đó về cha mình - Chí sĩ Hồ Học Lãm - người những năm đầu thế kỷ XX đã cùng một số người trẻ tuổi sớm theo tiếng gọi Đông du của cụ Phan Bội Châu xuất dương tìm đường cứu nước. Nay đã quá tuổi "cổ lai hy", (tôi sinh năm 1930), với đôi mắt mờ lòa, ước nguyện đó của tôi mới thành hiện thực.
Cuốn sách nhỏ này là những hồi tưởng của tôi về người cha kính yêu đã quá cố, những hồi tưởng không hoàn chỉnh và có phần lộn xộn. Ở tuổi ngoài bảy mươi, tôi cố gắng để không giấu diếm những cảm xúc và những suy nghĩ thật của mình. Biết có ai đó chăng thương cảm với kẻ ra đi tìm đường cứu nước những năm đầu thế kỷ XX, thời kỳ Tổ quốc ta lầm than, thời kỳ đế quốc thực dân đang hoành hành trên những miền đất hoang sơ lạc hậu ở Châu Á như Trung Quốc, Việt Nam... Kẻ ra đi, và suốt ba mươi bảy năm trời ở quê người đất khách, ông sống giữa những người xa lạ "đồng sàng dị mộng"; chí muốn tung hoành mà lực bất tòng tâm. Cuối cùng cha tôi phải bỏ nắm xương quê người, phải ngậm ngùi đau khổ vì mình chưa làm được gì nhiều cho công cuộc cứu nước, cứu nòi và không được gặp lại người mẹ mà ông vô cùng yêu thương và kính trọng. Bà nội đã là ngọn đuốc soi đường, là tấm gương sáng cho cha tôi noi theo và cố gắng làm những việc có ích cho đời, cho nhân dân và cách mạng hai nước Việt Nam - Trung Quốc.
Cha tôi không phải là đảng viên cộng sản, nhưng ông sống như một người chân chính, theo tiêu chí của chủ nghĩa yêu nước. Suốt cuộc đời ông đã chiến đấu, dâng hiến tất cả cho lý tưởng cao quý mà ông đã lựa chọn.
Tôi rất tự hào và cảm phục cha mình.
Những dòng cuối của "Hồi tưởng" này tôi phải viết bằng bút dạ ngòi to với sự trợ giúp của kính phóng đại. Sau gần ba năm, khi đà tám mươi tuổi mụ, tôi mới hoàn thành ý nguyện. Một sự hồi tưởng ít vui sướng, nhiều đau đớn, vượt quá sức chịu đựng của tôi. Tôi biết ngày tôi ra đi đã rất gần, ngày đó tôi sẽ tìm thấy cha, sẽ gặp chị và mẹ ở thế giới bên kia, thế giới của Tâm linh - Siêu vật chất "... Sắc bất dị không, không bất dị sắc...".
Tất cả, tôi xin dâng tặng hương hồn cha tôi - Chí sĩ Hồ Học Lãm.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các bạn bè, người thân đã hỗ trợ, giúp đỡ tôi hoàn thành cuốn hồi tưởng này.
Nguyên Tiêu Kỷ Sửu
HỒ MỘ LA
CHƯƠNG I
SINH LY TỬ BIỆT
Viết về cha tôi thật là khó, bởi vì rất nhiều sự kiện về đời ông xảy ra khi tôi chưa ra đời, tôi cũng chưa bao giờ được nghe ông trực tiếp kể lại. Hơn nữa, khi cha tôi còn sống, tôi còn quá nhỏ, chưa đủ ý thức để ghi nhớ việc làm tuy nhỏ nhưng hết sức không đơn giản của người cha đáng kính trọng của mình.
Nay tôi ghi lại những điều tai nghe mắt thấy khi tôi bắt đầu có trí nhớ của đứa trẻ, những điều do mẹ nhiều lần kể lại. Có những sự việc do chị tôi kể về cha. Khi tôi bắt đầu lớn khôn hơn thì cha tôi đã mất, tôi càng muốn hiểu rã cha mình, đặc biệt khi tôi ý thức được vị trí của ông trong lòng một số người cộng sản Việt Nam "trọng nghĩa", nhất là những năm 1946, 1947. Tôi thực sự sửng sốt khi nghe một số người nói: "Nếu cụ Hồ Học Lãm không mất nay sẽ là Chủ tịch nước...". Khi đó tôi mới hiểu một phần nhỏ giá trị về cha mình trong công cuộc cứu nước chung.
Để cố gắng đảm bảo độ chính xác về cuộc đời cha mình, gần đây tôi tìm đọc lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc và Lịch sử Quốc dân đảng Trung Quốc, hồi ký của các nhà cách mạng tiền bối, của Thiếu tướng Lê Thiết Hùng … Tôi cố gắng chắp nối các việc làm và cuộc đời của cha tôi theo trình tự thời gian.
Mọi việc làm của cha tôi xuất phát từ lòng yêu nước thực sự, ông không mảy may nhắc vợ con ghi nhớ việc làm vì sự nghiệp cứu nước của mình, không hề để lại những bút tích hay giấy tờ quan trọng để làm bằng chứng lịch sử về sự cống hiến của mình, không hề nói đến hai chữ "công lao" để sau này vợ con yêu sách đãi ngộ với cách mạng. Ông chỉ nói một câu đơn giản với vợ: "Mình ra đi vì nước, chớ bao giờ có tư tưởng công thần...".
*
* *
Khi có lời kêu gọi xuất dương "Đông du" cứu nước của cụ Phan Bội Châu, bà nội tôi, Trần Thị Trâm, tục gọi là bà Lụa, hưởng ứng ngay. Đích thân bà đưa con trai thứ rất đỗi yêu quý cùng một số thanh niên khác (bà đã làm việc đó nhiều đợt) đến biên giới Việt - Trung để vượt biên sang Trung Quốc chờ dịp đi Nhật.
Trước khi đưa con trai đi, bà nội tôi đi xem bói. Thầy bói phán rằng: "Chuyến đi buôn xa của con trai bà e rằng có đi không về... Hai mẹ con bà có khi không gặp mặt nhau nữa...". Bà nội tôi trăn trở nhiều đêm không ngủ. Nhưng cuối cùng bà tặc lưỡi nói với cha tôi: "Lời phán của thầy bói lăng nhăng tin làm chi... mà con trai quẩn bên váy mệ biết khi mô nên người!... Thôi, đi đi con ạ, mệ sẽ sống khỏe mạnh đợi con trở về, mong rằng khi đó con cầm quân đuổi Pháp khỏi nước mình, mệ tin con làm được, con là đứa con can đảm có chí của mệ".
Đó là một đêm mưa phùn gió bấc năm 1906, trời lạnh lẽo, lòng người tê tái trước cuộc chia tay sinh ly tử biệt. Hai mẹ con nắm chặt tay nhau không nói nên lời, tuy không khóc ra tiếng, nhưng đều nước mắt đầm đìa. Cuối cùng chiếc thuyền đánh cá ghé vào bến giục giã, cha tôi cùng hai người bạn xuống thuyền, quay lại nhìn lên bến thấy bóng người mẹ đứng so vai đơn chiếc, cha tôi muốn òa lên khóc vì thương mẹ nhiều nỗi, nhưng nghĩ đến ông nội tôi bị giặc giết, bà nội can trường lặn lội đó đây hoạt động cứu nước, nghĩ đến ăn mày chết đói rải xác trên đường quốc lộ từ Bắc vào Nam... cha tôi cắn răng nén tiếng thổn thức... Sau này có lúc cha tôi kể với mẹ tôi: "Khéo lời phán của ông thầy bói là đúng, nay mình đã sắp ngũ tuần, chưa thấy loé lên tia hy vọng nào về sự nghiệp cứu nước. Bản thân mình sức hèn, tài mọn, chẳng làm nên trò trống gì ... lắm khi lòng nóng như lửa thiêu ...".
Con thuyền đánh cá chở ba thanh niên Việt Nam đi suốt đêm, đến chiều hôm sau, khi sắp cập vào một cửa khẩu ở Quảng Đông, thì có tin báo lính tuần đang lục soát các thuyền đánh cá, ba người phải ôm bọc quần áo nhảy vội xuống nước, nấp dưới đuôi thuyền. May là khi đó trời đã tối mịt, chờ khi bọn lính tuần đi khỏi, cả ba mới lặng lẽ bơi vào bờ... Giữa mùa đông Trung Hoa băng giá, do ngâm lâu dưới nước, cha tôi nhiễm lạnh đến sưng phổi. Ở Quảng Đông, ông phải làm bốc vác kiếm cơm từng bữa, nói gì đến dành tiền mua thuốc. Dần dà, cha tôi bị hen phế quản, sau cùng biến chứng thành bệnh tim to...
Trong thời gian chờ đợi, cha tôi và hai người bạn làm phu bốc vác và học tiếng Trung Quốc. Khi cụ Phan Bội Châu lo đủ kinh phí và số lượng thanh niên Đông du, cụ đích thân dẫn đoàn sang Nhật. Đến Tôkyo, nhờ sự giúp đỡ của hoàng thân Nguyễn Cường Để, đoàn lưu học sinh được sắp xếp vào học trường võ bị Chấn Vũ[1].
Mùa xuân năm 1907, thời gian đầu lưu học sinh Việt Nam học tiếng Nhật cấp tốc trong ba tháng, sau đó vừa học tiếng, vừa học lý thuyết cơ bản, thao tác quân sự, cách sử dụng súng trường, súng lục v.v... Nói chung lưu học sinh Việt Nam hăng hái học tập, nhưng một số ít do không chịu đựng nổi cuộc sống kham khổ của người lính, đã bỏ về nước. Học quân sự vừa được một năm, do sự xúc xiểm, gây sức ép của đế quốc Pháp, chính phủ Nhật ra lệnh trục xuất toàn bộ lưu học sinh quân sự ra khỏi nước Nhật (trừ một số ít học chuyên ngữ tại trường Thanh Hoa Tôkyo như Trần Thức Canh, sau này lấy tên là Trần Trọng Khắc, được cụ Phan gửi sang Đức học về y)... Cuộc "Đông du" của cụ Phan Bội Châu coi như thất bại.
Khoảng mùa xuân 1908, Tưởng Giới Thạch cũng vào học trường Chấn Vũ vì cùng chí hướng phản đế, phản phong, quen thân một số lưu học sinh Việt Nam, trong đó đặc biệt chơi thân với cha tôi. Trong một bữa ăn ở Tam Sơn Lý, cha tôi kể chuyện: "Tưởng Giới Thạch khôi ngô, tuấn tú, thông minh... Có lần, anh ta nhờ mình viết luận văn trả bài thi. Không hiểu hắn bận chơi gái hay bận hoạt động chính trị, thường xuyên vắng mặt ở lớp... Thực ra anh ta là thân tín của Trần Kỳ Mỹ, một trong những lãnh tụ của Đồng minh Hội của Tôn Trung Sơn... Mình học có giỏi giang gì đâu, chẳng qua dân xứ Nghệ quen học gạo, cho nên kết quả học tập trội hơn một tý....". Một người cách mạng Việt Nam sống trong nhà tôi lúc đó hỏi: "Thế cụ có viết luận văn hộ cho Tưởng không?", "Có, luận văn quân sự mang tính chiến thuật không có gì khó. Mặt khác mình nghĩ, đi học nước ngoài quen thân nhiều bạn bè nước ngoài càng tốt chứ sao? Hơn nữa, anh ta có tư tưởng tiến bộ, chống phong kiến, đế quốc, các kiến giải của anh ta khi đó khá tiến bộ, sau này anh ta mới lộ rõ bản chất phản động".
Năm 1908, trước tình hình chính phủ Nhật trục xuất lưu học sinh Việt Nam, có nhiều thanh niên nhân dịp đó xin trở về nước, bởi vì cuộc sống lưu học ở nước ngoài quá ư thiếu thốn, gian khổ. Một số học sinh xứ Nghệ - Tĩnh và xứ Bắc vốn quen cuộc sống kham khổ, đã cương quyết theo cụ Phan sang Trung Quốc. Nhờ sự giới thiệu của Tưởng Giới Thạch, đặc biệt nhờ sự giúp đỡ của nhóm nhân sĩ tiến bộ đứng đầu là Khang Hữu Vi, cụ Phan được trường quân sự của Mãn Thanh "Thông quốc lục quân tốc thành học đường", tiền thân của trường sĩ quan lục quân Bảo Định, nhận đào tạo quân sự cho một số thanh niên Việt Nam, trong đó có cha tôi.
Cha tôi học tại đấy khoảng ba năm, chơi thân với các bạn đồng học như Bạch Sùng Hy, Lý Tế Thâm và nhiều người khác nữa, họ là những thanh niên yêu nước Trung Quốc. Theo mẹ tôi kể, nhiều bạn đồng học Trung Quốc rất quý cha tôi vì tính khoan hòa, khiêm tốn, hiếu học, đối nhân xử thế trung thực, nhân hậu. Sau này, Bạch Sùng Hy, Lý Tế Thâm đều là tướng lĩnh cao cấp của quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc. Một số khác là đại tá, thiếu tướng cùng làm việc trong bộ Tổng tham mưu tại Nam Kinh cùng cha tôi, nghĩa là giữa cha tôi với một số bạn học vừa là đồng môn, đồng ngũ, và đồng liêu nữa.
Xuân hè năm 1911, trong thời gian đang học ở trường sĩ quan lục quân Bảo Định[2], cha tôi tiếp cận và chơi thân với một số bạn đồng học có tư tưởng chống đế quốc, chống phong kiến và chuyền tay nhau đọc "Tam dân chủ nghĩa" của Tôn Trung Sơn. Qua câu chuyện mẹ tôi kể, cha tôi chơi khá thân với Tưởng Giới Thạch, thỉnh thoảng giữa họ có thư tín với nhau.
30 tháng 10 năm 1911 cuộc khởi nghĩa
Vũ Xương thắng lợi, Trung Quốc coi đó là mốc lịch sử của cách mạng Tân Hợi. Về danh nghĩa, cách mạng Tân Hợi thành công, Nhưng thực chất là thất bại, sau đó là có tới 10 năm nội chiến chống bọn quân phiệt Bắc Dương - tay sai của bọn đế quốc Nhật, Anh, Pháp. Sau khi khởi nghĩa Vũ Xương thành công, Tưởng lập tức từ Nhật trở về nước hoạt động ở tỉnh Triết Giang. Tưởng có gửi thư rủ cha tôi về đó tham gia hoạt động giải phóng tỉnh Triết Giang. Trước khi tốt nghiệp quân sự, cha tôi viết thư hỏi ý kiến cụ Phan (hình như thời gian đó cụ Phan ở Quảng Đông). Nội dung thư trả lời của cụ Phan đại khái là: Cách mạng của ông Tôn Trung Sơn không thành công thì công cuộc cứu nước của mình sẽ khó khăn. Trong lúc chờ thời cơ và rèn luyện qua thực tiễn, cụ khuyên cha tôi cứ tham gia "Trung Hoa cách mạng quân" của Tôn Trung Sơn. Do đó cha tôi về Triết Giang với Tưởng, và làm sĩ quan trong Bộ tư lệnh quân đoàn của Tưởng ở Thượng Hải. Thời kỳ đó Tưởng làm quân đoàn trưởng cho Trần Kỳ Mỹ - một trong những người lãnh đạo Đồng Minh hội do Tôn Trung Sơn sáng lập.
Vũ Xương thắng lợi, Trung Quốc coi đó là mốc lịch sử của cách mạng Tân Hợi. Về danh nghĩa, cách mạng Tân Hợi thành công, Nhưng thực chất là thất bại, sau đó là có tới 10 năm nội chiến chống bọn quân phiệt Bắc Dương - tay sai của bọn đế quốc Nhật, Anh, Pháp. Sau khi khởi nghĩa Vũ Xương thành công, Tưởng lập tức từ Nhật trở về nước hoạt động ở tỉnh Triết Giang. Tưởng có gửi thư rủ cha tôi về đó tham gia hoạt động giải phóng tỉnh Triết Giang. Trước khi tốt nghiệp quân sự, cha tôi viết thư hỏi ý kiến cụ Phan (hình như thời gian đó cụ Phan ở Quảng Đông). Nội dung thư trả lời của cụ Phan đại khái là: Cách mạng của ông Tôn Trung Sơn không thành công thì công cuộc cứu nước của mình sẽ khó khăn. Trong lúc chờ thời cơ và rèn luyện qua thực tiễn, cụ khuyên cha tôi cứ tham gia "Trung Hoa cách mạng quân" của Tôn Trung Sơn. Do đó cha tôi về Triết Giang với Tưởng, và làm sĩ quan trong Bộ tư lệnh quân đoàn của Tưởng ở Thượng Hải. Thời kỳ đó Tưởng làm quân đoàn trưởng cho Trần Kỳ Mỹ - một trong những người lãnh đạo Đồng Minh hội do Tôn Trung Sơn sáng lập.
Sau khi giải phóng Hàng Châu và Thượng Hải, Tưởng và cha tôi tiếp tục cầm quân chiến đấu. Trong một trận đánh bọn quân phiệt Mãn Thanh, Tưởng bị vây hãm nguy khốn, song cha tôi đã kịp thời đem quân đến giải vây, do đó Tưởng càng tỏ ra quý mến cha tôi hơn.
Cha tôi kể với mẹ tôi: Cuộc sống chiến đấu cực kỳ gian khổ, vì nghĩa quân cách mạng Trung Hoa thời đó chưa có xe cơ giới, mỗi lần di chuyển địa điểm chiến đấu đều hành quân bộ. Ngày đi đêm nghỉ, đi dưới mưa to gió lớn, tiện đâu ngủ đấy, nhiều khi phải ngủ trên bãi tha ma hay trong miếu để quan tài người chết[3]. Ăn uống thiếu thốn, áo mặc phong phanh, lính tráng thường xuyên đào ngũ. Cha tôi hay lên cơn hen suyễn vào những ngày mưa lạnh.
Tưởng biết cha tôi là một chỉ huy gương mẫu, chiến đấu dũng cảm, không nề hà gian khổ, lại nhớ rằng ông vốn học giỏi, có năng lực nghiên cứu lý luận quân sự, vì vậy khi nghe tin cha tôi hay lên cơn hen suyễn, Tưởng liền điều cha tôi về làm tham mưu tại Bộ Tư lệnh đốc quân phủ Hàng Châu. Đó là khoảng cuối năm 1916, đô đốc Hàng Châu là Lư Vĩnh Tường.
Từ năm 1913, cha tôi mất liên lạc với cụ Phan Bội Châu. Vẫn biết vị thầy, vị lãnh tụ của mình vì sự nghiệp cứu nước, bất chấp mọi gian khổ, nguy hiểm bươn chải đây đó, không chịu ngồi yên một chỗ. Song bao năm trời giữa hai người vẫn giữ mối liên hệ thường xuyên với nhau, nay bỗng bặt tin. Sau khi về Hàng Châu ổn định công việc, cha tôi ra sức tìm kiếm, cuối cùng được biết đô đốc tỉnh Quảng Đông Long Tế Quang cầm tù cụ Phan khoảng hai năm chưa thả. Ông liền đến gặp Lư Vĩnh Tường trình bày mọi sự tình, đề nghị ông ta viết thư tay để cha tôi cầm đi gặp Long Tế Quang. Đô đốc Hàng Châu vốn biết cha tôi là người Việt Nam yêu nước, là bạn học của Tưởng Giới Thạch. Hơn nữa ông ta là người trọng nghĩa khí nhận lời ngay, và cho cha tôi nghỉ phép để đi Quảng Châu.
Đến đó, cha tôi đưa thư cho Long và đề nghị thả cụ Phan ra. Giữa Lư và Long vốn là chỗ quen biết, cuối cùng Long chịu thả cụ Phan.
Bị giam cầm hơn hai năm, cụ Phan hầu như không nắm được tình hình thời cuộc. Vừa được thả, cụ đòi đi Nam Ninh Quảng Tây ngay để bắt liên lạc với trong nước. Sau khi phân tích tình hình nội chiến giữa quân cách mạng với quân phiệt Bắc Dương, tình hình chính trị nhiều phe cánh ở Trung Quốc và tình hình thế giới, việc đi lại dễ gặp những sự bất trắc, cha tôi khuyên cụ Phan hãy về Hàng Châu nghỉ dưỡng sức một vài tháng, vì cụ mới ra tù, rồi sẽ tìm cơ hội. Khi đó, cụ mới chịu theo cha tôi về Hàng Châu.
Mẹ tôi rất quý trọng cụ Phan, thường kể rằng cụ Phan có phong độ đạo mạo, nhưng cũng rất hóm hỉnh và rất tinh nghịch. Tâm cụ luôn sục sôi vì sự nghiệp cứu nước. Văn chương cụ nồng nhiệt, hào sảng. Hễ lóe ra một tia hy vọng nào đó, cụ quên cả tuổi tác, sức khỏe và bất chấp hiểm nguy vội vàng đi ngay. Con người cụ chân thành và cả tin, đôi lúc hơi nông nổi. Cha tôi làm việc trong bộ máy nhà nước của Trung Hoa Quốc Dân đảng, lại tương đối quảng giao, nên nắm được nhiều thông tin và tình hình chính trị. Vì sợ cụ Phan bị sa bẫy, nên giữa hai thầy trò có giao kèo với nhau: Hễ cụ Phan muốn đi đâu, nhất thiết phải trao đổi với cha tôi, để nếu có thể, cha tôi sẽ đi cùng để bảo vệ cụ, hoặc để cụ đi một mình, nhưng nếu có việc gì xảy ra, cha tôi còn biết đường mà tìm. Ở Hàng Châu có cụ Nguyễn Thượng Hiền cũng là người xuất dương tìm đường cứu nước. Sau này thấy thời cuộc phức tạp, sự nghiệp cứu nước còn mù mịt, cụ chán nản bỏ đi tu. Ngoài ra còn có Phan Bá Ngọc, con trai cụ Phan Đình Phùng, cũng thuộc thế hệ Đông du, sau vì không chịu nổi cuộc sống gian khổ, cuối cùng làm mật thám cho Pháp. Ông ta không ở hẳn Hàng Châu, không rõ nghề nghiệp, thỉnh thoảng gửi bài đăng ở "Binh sự tạp chí", hay đi Quảng Châu và Thượng Hải và vẫn đi lại với gia đình tôi.
Về Hàng Châu, cha tôi giới thiệu cụ Phan với Tổng giám đốc nhà in "Binh sự tạp chí" - ông Lâm Lương Sinh. Ông Lâm vốn có thiện cảm với cách mạng Việt Nam, vừa hay đang cần thêm một biên tập viên, cho nên ông nhận ngay cụ Phan vào làm việc. Như vậy, trong ban biên tập ngoài hai người Trung Quốc có hai người Việt Nam, đó là Trần Trọng Khắc và cụ Phan. Để nội dung tạp chí phong phú, Ban biên tập nhận các bài luận văn quân sự hoặc chính trị của cha tôi nữa. Như vậy mấy thầy trò cụ Phan và Trần Trọng Khắc, Hồ Học Lãm, v.v... thường xuyên gặp mặt nhau khi đi vãn cảnh Tây Hồ Hàng Châu, lúc đi ăn liên hoan ở nhà hàng với nhau, bàn luận thời cuộc v.v... Cuộc sống cụ Phan nay tạm ổn.
Một hôm cụ Phan nói chuyện với cha tôi: "Năm nay anh cũng băm ba, băm tư tuổi rồi đấy nhỉ. Sự nghiệp cứu nước xem ra còn lâu dài, anh cũng nên tính chuyện lấy vợ đi chứ". Cha tôi khẽ cười, thưa: "Biết lấy ai bây giờ. Đành ở vậy thôi". Cụ Phan cho biết có con gái cụ Ngô Quảng, nguyên phó lãnh binh của cụ Phan Đình Phùng, tên là Ngô Khôn Duy. Vốn là học sinh cưng của cụ Đặng Thúc Hứa bên Xiêm, Khôn Duy hiện theo học "Trường Đức Hoa nữ tử cao đẳng tiểu học" ở Khúc Giang, Quảng Đông, mùa hè năm ấy sẽ tốt nghiệp. Cuối hè năm 1918, cha mẹ tôi thành hôn thú. Theo giấy giá thú, cụ Phan đứng chủ hôn. Năm đó cha tôi ba mươi tư tuổi, còn mẹ tôi hai mươi lăm tuổi. Tháng 3 năm 1920 mẹ tôi sinh con gái đầu lòng là Hồ Diệc Lan ở thành phố Hàng Châu. Sau đó mẹ tôi sinh nở bốn, năm bận trai có, gái có. Vì khung xương chậu mẹ tôi nhỏ, trình độ y học thời đó còn kém, cho nên các anh chị khác của tôi, người chết ngay trên bàn đẻ, người chỉ sống được một vài tháng. Mỗi bận sinh nở, vì mẹ tôi đẻ khó, phải dùng thuốc mê. Điều này đã để lại chấn thương cả về tinh thần lẫn sức khỏe cho mẹ tôi. Còn tôi, suýt nữa đã không được ra đời. Vì khi có mang tôi, hai ông bà bàn nhau sẽ bỏ tôi đi và bà đã uống thuốc đả thai... Nhưng tôi cứng cổ quá, cứ ở lỳ trong bụng mẹ, và được sinh ra cuối tháng 8 năm 1930. Khi đó mẹ tôi ba mươi bảy tuổi, cha tôi bốn mươi sáu tuổi, và gia đình đã về ở Nam Kinh.
Theo mẹ kể, khoảng năm 1921 – 1922, hai anh Hồ Tùng Mậu và Lê Tản Anh đến với gia đình tôi ở Hàng Châu. Ở với gia đình khoảng một năm, các anh muốn học tiếng Trung Quốc và tiếng Anh, cha tôi chu cấp tiền học phí. Chí của hai anh là hoạt động cách mạng, cho nên không chuyên tâm học tiếng Anh. Sau đó các anh đi hoạt động ở Quảng Châu, Thượng Hải v.v... Khoảng tết Nguyên tiêu (rằm tháng giêng) năm Tân Dậu 1921, chị tôi vẫn còn ẵm ngửa, Phan Bá Ngọc chủ động rủ mọi người ra phố chơi. Sau bữa cơm tối, Lê Tản Anh, Phan Bá Ngọc cùng cha mẹ tôi đi ra phố xem hội hoa đăng, trưng bày các loại đèn lồng và bắn pháo hoa. Lê Tản Anh giành bế chị Lan hộ mẹ tôi. Hàng Châu có Tân thị trường là phố sầm uất, bán các loại đèn lồng và pháo hoa. Tối hôm đó, người đông như nêm. Gần Tân thị trường có một sân vận động lớn gọi là "Công chúng vận động trường". Sau khi sắm đèn lồng, mua pháo hoa, mọi người kéo ra sân vận động này bắn pháo hoa. Hôm đó, Phan Bá Ngọc rất hào hứng mua các loại pháo hoa đốt để mọi người xem cho vui mắt. Phan đặt pháo hoa xuống đất, cúi người xuống châm lửa. Bỗng có hai tiếng súng hòa lẫn tiếng pháo hoa, tiếng trẻ con reo hò. Bất thần, mọi người thấy Phan ngã sóng xoài giữa vũng máu. Mọi người la hét và chạy tán loạn. Lê Tản Anh ẵm Diệc Lan chạy trước tiên. Cha mẹ tôi không rõ là Pháp hay phía cách mạng bắn Phan Bá Ngọc, cho nên cũng vội theo Lê Tản Anh về nhà. Sáng sớm hôm sau, Lê Tản Anh bỏ đi không một lời từ biệt. Khi đó cha mẹ tôi mới vỡ lẽ ai là người xử bắn tên phản bội, và vì sao đêm qua Lê Tản Anh nhất định giành ẵm Diệc Lan, vì anh giấu súng dưới chăn tã của chị tôi.
Ngày hôm sau, các báo Hàng Châu đưa tin và đăng bài của một người không rõ tên: "Hạch tội tên phản quốc Việt Nam - Phan Bá Ngọc". Về sau cha mẹ tôi mới rõ Lê Tản Anh bắn Phan Bá Ngọc là thừa lệnh hoàng thân Nguyễn Cường Để. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, Lê Tản Anh sang Nhật ngay để trả lại súng cho Cường Để. Tản Anh đã phải phục mãi mới tìm được dịp, vì Phan Bá Ngọc không ở hẳn Hàng Châu. Sau Tết âm lịch năm đó, Phan Bá Ngọc về Hàng Châu, nhờ đó Lê Tản Anh hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt đẹp. Đêm hoa đăng ấy, cụ Phan Bội Châu đã không có mặt.
Một hôm, mẹ tôi kể chuyện cụ Phan cho các chú nghe, tôi gối đầu lên đùi bà nghe chăm chú: "Người cụ Phan gầy gò, xương xương. Tiền lương hàng tháng của cụ với tiền nhuận bút, thu nhập của cụ cũng khá. Nhưng cụ sống hết sức tiết kiệm, căn cơ. Tích vài ba tháng cụ lại gửi tiền sang Đức cho Trần Trọng Khắc đang học y ở đó... Vì nôn nóng sự nghiệp cứu nước, cụ nhiều lần nghe Sở Cuồng (Lê Dư), Phan Bá Ngọc phỉnh phờ về vấn đề Pháp Việt đề huề, cụ tự ý bỏ sang Nhật tìm gặp Sở Cuồng. Mãi sau cha tôi viết thư sang Nhật cho cụ Nguyễn Cường Để thì mới hay cụ Phan lại mắc lừa Sở Cuồng. Dù cha tôi vẫn luôn nhắc cụ đi đâu, làm gì, thì hai thầy trò hãy bàn bạc với nhau trước, cụ gật đầu, nhưng rồi vẫn nông nổi... Giữa năm 1924, một hôm "Hàng Châu nhật báo" đưa tin: Chí sĩ yêu nước Việt Nam Phạm Hồng Thái ném bom vào cầm quyền Pháp Méc-lanh ở một khách sạn Sa Diện. Vì bị săn đuổi ráo riết, anh đã nhảy xuống sông Hoàng Phố tử tiết... Tin về Phạm Hồng Thái khiến mọi người vô cùng sửng sốt, khâm phục, thương tiếc và tự hào. Ít lâu sau cụ Phan nhận được thư của Nguyễn Hải Thần mời về Quảng Châu bàn việc hoạt động... Cụ Phan lại đòi đi ngay. Để đảm bảo sự an toàn cho cụ Phan, cha tôi xin nghỉ phép vài tháng, đưa cụ đi Quảng Châu.
Đến Quảng Châu, cha tôi cùng cụ Phan đi gặp Uông Tinh Vệ (một trong những người lãnh đạo cao cấp của Quốc dân đảng Trung Quốc. Về sau y trở thành Hán gian của Nhật) và Liêu Trọng Khải (một đảng viên cộng sản nằm trong cơ quan lãnh đạo của Quốc dân đảng). Qua trình bày của cụ Phan, Uông và Liêu tỏ ý sẵn lòng ủng hộ cách mạng Việt Nam theo đường lối của Tôn Trung Sơn. Để có danh nghĩa hoạt động hợp pháp, cụ Phan thảo tuyên ngôn, điều lệ với "Chủ nghĩa Dân bản" để thành lập Quốc dân đảng Việt Nam. Do thiếu kinh phí hoạt động (phía Trung Quốc thời kỳ đó không có khả năng tài trợ) và thiếu thanh niên hăng hái hoạt động, rút cuộc tổ chức đó hữu danh vô thực. Cụ Phan đành lại theo cha tôi quay về Hàng Châu chờ thời cơ. Phía Trung Quốc chỉ có thể giúp Việt Nam bằng cách cho thanh niên Việt Nam vào học trường quân sự Hoàng Phố (Có nhiều thanh niên cộng sản Việt Nam học ở trường đó như Lê Hồng Phong, Lê Tản Anh, Lê Thiết Hùng, Hồ Tùng Mậu, v.v...).
Quay về Hàng Châu, cụ Phan Bội Châu tiếp tục làm biên tập viên cho "Binh sự tạp chí", vẫn sống ở ký túc "Đồng bào xã".
Một ngày giữa năm 1925, cụ Phan lại "mất tích" ở Hàng Châu. Cha tôi hết sức lo lắng, vội viết thư đi Quảng Châu, Nam Ninh, Tôkyô v.v... để tìm tung tích cụ Phan. Không ai biết cụ ở đâu. Mãi hai tháng sau được tin cụ bị Pháp bắt ở Thượng Hải, mọi người nghi cháu của cụ Nguyễn Thượng Hiền là Nguyễn Thượng Huyền đã lừa cụ vào tròng. Cuối cùng cụ bị đưa về nước. Cha tôi rất buồn, vì cụ Phan vừa là người thầy, người lãnh tụ, người anh cả...
Mẹ tôi kể: "Khi đọc Tam dân chủ nghĩa của Tôn Trung Sơn, cụ Phan rất thích thú, muốn phỏng theo đường lối cách mạng của Tôn; Khi đọc những quyển sách nói về chủ nghĩa cộng sản, cụ Phan cũng rất hào hứng và thú vị...". Các cụ xuất dương cứu nước, ban đầu vẫn là tư tưởng "cứu nước phò vua", do đó cụ Phan đã khuyên hoàng thân Nguyễn Cường Để sang Nhật, những mong nhờ sự giúp đỡ của Nhật để đánh đuổi thực dân Pháp, sẽ xây dựng chế độ quân chủ với kinh tế tư bản chủ nghĩa - khuôn mẫu của Minh Trị thiên hoàng. Nhưng lệnh trục xuất toàn bộ lưu học sinh Việt Nam đã khiến cụ Phan bừng tỉnh. Nguyện vọng của các cụ sau này là xây dựng thể chế cộng hòa dân chủ, nhưng mục tiêu trước mắt là giải phóng dân tộc. Mẹ tôi gọi đó là "quốc gia chủ nghĩa ".
[1]Masutakesi Military College
[2]Trước Cách mạng Tân Hợi (10-10-1911) vùng Bắc Kinh vẫn là địa phận cai trịcủa Triều đình Mãn Thanh. Năm 1912 PhổNghi mới thoái vị. Bảo Định nằm gần Bắc Kinh.
[3]Thời trước, Trung Quốc đểngười chết nằm trong quan tài tại miếu tới 3 tháng 10 ngày mới đem đi chôn. Có gia đình đểhàng năm vì quan tài nhà giầu đóng bằng gỗsúc, sơn hàng mấy chục lần nước sơn, cho nên quan tài rất kín.
http://vanhoanghean.vn/dat-va-nguoi-xu-nghe6/nguoi-xu-nghe43/ky-niem-ve-cha-toi-chi-si-ho-hoc-lam
http://vanhoanghean.vn/dat-va-nguoi-xu-nghe6/nguoi-xu-nghe43/ky-niem-ve-cha-toi-chi-si-ho-hoc-lam
(2)
Chương II
Chị Diệc Lan của tôi sinh năm 1920 tại thành phố Hàng Châu, tỉnh Triết Giang. Đó là một thành phố thanh bình, thơ mộng với nhiều thắng cảnh quanh "Tây Hồ", mang những chứng tích của lịch sử Trung Hoa. Tôi sinh năm 1930 tại Nam Kinh - thủ đô của chính phủ Quốc dân đảng do Tưởng Giới Thạch đứng đầu. Đây là một thành phố náo nhiệt. Không xa thành phố là những danh lam, như Trung Sơn lăng (nơi chôn cất thi hài Tôn Trung Sơn), Huyền Vũ hồ, Vũ Hoa đài, Tử Kim Sơn v.v...
Trang đầu ký ức tuổi thơ của tôi là khi gia đình sống tại chung cư Pháng Ngọa Cảng, Nam Kinh. Đó là khu chung cư bình dân, mái ngói một tầng. Cả khu có khoảng mười dãy nhà kéo dài, mỗi dãy xây làm nhiều căn hộ. Mỗi căn hộ gồm bốn phòng lớn và vài phòng nhỏ. ở giữa là một sảnh ngăn đôi làm tiền sảnh, hậu sảnh, phía sau là nhà bếp lớn và công trình phụ. Giữa các dãy nhà là đường qua lại rộng khoảng bốn mét. Khu nhà khá lụp xụp và tối tăm. Gia đình tôi ở chung với một gia đình viên chức Trung Quốc, mỗi gia đình ở ba phòng, cái sảnh bỏ không, dùng chung nhau nhà bếp và công trình phụ.
Phòng lớn nhất khoảng 18 mét vuông, có một cửa ra vào nơi tiền sảnh. Phòng kê một tủ sách, một giường đôi, một giường đơn, trước giường đơn kê một bàn dài với một ghế băng. Bàn đó vừa là bàn làm việc, vừa là bàn ăn cho cả nhà. Các chú cách mạng ở phòng ngoài. Phòng trong khoảng 13, 14 mét vuông, có cửa thông hai phòng. Phòng trong kê một giường đôi cho mẹ và tôi, cạnh đó một giường đơn và một bàn học của chị tôi, một tủ áo và một chồng va li đựng áo quần mùa đông. Cuối phòng có một cửa ra vào hậu sảnh liền sát cửa phòng cha tôi. Mẹ nói cha bị bệnh hen suyễn, lại phải làm việc khuya, bà thì mắc chứng mất ngủ, nên ông bà không nằm chung. Có một phòng nhỏ vốn để dành cho người ở, được dùng làm phòng ngủ và làm việc của cha tôi. Gia đình tôi quan hệ với hàng xóm hòa thuận và tin cậy, không mấy giữ kẽ với nhau.
Hàng ngày mẹ tôi đi chợ, làm cơm nước cho cả nhà. Các chú Lê Quốc Vọng (sau mang tên Lê Thiết Hùng) và Bùi Hải Thiệu thỉnh thoảng xuống bếp thu dọn, bổ củi giúp mẹ tôi.
Cư dân ở khu chung cư này là chủ yếu là những viên chức hoặc công nhân. Ban ngày người lớn đi làm, nên khá yên tĩnh, dù trẻ con tụ tập nô đùa. Các bà nội trợ cơm nước, giặt giũ. Buổi tối thường huyên náo hơn.
Gia đình tôi còn có "con Xù", một con chó lông màu nâu vàng, khá "bảnh trai", với đôi mắt rất tinh khôn, tình cảm. Hàng ngày chú Quốc Vọng và chú Hải Thiệu chăm chút miếng ăn cho Xù. Nó được xem là một thành viên đáng kể của gia đình.
*
* *
Đối với tôi, từ ngày sinh ra đời là một chuỗi những ngày tháng trôi đi không để lại mảy may dấu ấn gì về sự tồn tại của mình trong ký ức... Những tiếng cười vang, tiếng hò la rượt đuổi dưới nắng hè ngoài sân, khi thì mấy cái đầu chụm vào nhau chơi đất cát, mồ hôi nhễ nhại và tiếng nói thầm thì.
Những hình ảnh đó mờ mờ ảo ảo, lúc ẩn lúc hiện trong trí nhớ về tuổi thơ như một cuốn phim .... Cuốn phim ấy quay cho tới cảnh một buổi chiều chạng vạng tối, mẹ gọi về ăn cơm. Tôi từ sau nhà chạy qua bếp như mũi tên lao vút vào hậu sảnh, rồi đột ngột dừng chân, rón rén đi qua căn phòng ngủ của cha tôi. Cửa phòng cha nửa mở nửa khép, tôi liếc mắt ngó vào, thấy ông đã ngồi trước bàn dưới ánh đèn, tay phải cầm bút lông, tay trái cầm điếu thuốc lá, ông đang cặm cụi viết gì đó, thỉnh thoảng húng hắng ho nhẹ. Tôi chỉ nhìn thấy cái lưng hơi hơi gù với cái gáy húi cua điểm nhiều tóc bạc. Bỗng một tình cảm xót xa trào dâng: "Sao thầy làm việc nhiều thế nhỉ, chẳng thấy thầy nghỉ ngơi gì cả, thầy không thấy mệt hay sao? Mình chạy nhiều còn thấy mệt...".
Từ đó, trí nhớ trẻ thơ trỗi dậy, lần lượt in những ký ức vào cái đầu ngây thơ và tôi bắt đầu để ý căn phòng nhỏ của cha sau mỗi lần từ bếp chạy qua để lên nhà trên. Đó là căn phòng nhỏ hình chữ nhật, rộng khoảng sáu – bảy mét vuông. Một giường đơn kê dọc gần sát cửa ra vào, phía đầu giường đặt một cây móc áo, cuối phòng kê một bàn làm việc chồng đầy sách báo, một nghiên mực với một cái ống đựng các loại bút lông (cỡ viết chữ to và chữ nhỏ) và một cái ghế. Khi ông đi làm, phòng khép hờ, trong phòng tối om, quần áo dài thường phục treo trên cây móc áo. Buổi chiều đi làm về khoảng 6 giờ, ông trút bỏ bộ quân phục treo lên cây móc áo và thay quần áo thường phục, ngồi trước bàn làm việc. Sáng sáng, ông thay bộ quân phục đi làm, không kịp ăn sáng ở nhà. Mười một giờ rưỡi trưa ông về, ăn vội vài bát cơm rồi vào phòng nghỉ; Khoảng một giờ chiều lại đi, đến mùa đông khi xâm xẩm tối mới về nhà. Buổi tối, cha tôi ăn cơm thư thả và trò chuyện vui vẻ với mọi người. Nói chung ông ít nói, đi đứng khoan thai, chậm rãi, nói năng điềm đạm, từ tốn và hòa nhã. Thân hình ông đẫy đà, nhưng hơi thở hổn hển, dáng vẻ mệt mỏi, già nua. Nhìn cha, tôi không khỏi cảm thấy tiếc: “Sao thầy trông già hơn mẹ nhiều thế nhỉ? Ước gì ông trẻ như mẹ thì hay bao nhiêu”. Thực ra cha tôi chỉ hơn mẹ tôi có chín tuổi thôi. Điều đó chứng tỏ ông làm việc lao lực quá và sức khỏe yếu. Sau bữa cơm tối, khoảng 8 giờ ông lại vào phòng riêng làm việc tới khuy. Trong nhà có hai người làm việc cần cù nhất, đó là cha tôi - làm việc nuôi sống cả nhà và chị tôi - đi học ngày hai buổi, tối lại học tận khuya mới đi ngủ. Người ngủ sớm nhất và dậy muộn nhất chỉ có tôi thôi – một đứa trẻ chỉ biết nô đùa suốt ngày cùng bạn bè ngoài sân, ngoài đường.
Hình ảnh cha ngồi miệt mài làm việc đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong trí nhớ tuổi thơ của tôi, khi đó còn mát lạnh vì tôi vẫn còn mặc áo gi-lê kép, đó là khoảng mùa xuân năm 1933. Từ hôm đó trở đi, tôi bỗng ý thức được sự tồn tại của mình và mới để ý những người xung quanh. Mẹ là người tôi gần gũi nhất, nhưng cũng với ấn tượng bình thường nhất, có lẽ vì quá gần gũi chăng? Mẹ tôi thấp, người nhỏ nhắn, đi đứng nhanh nhẹn, tính tình hoạt bát, hay ngâm thơ Đường và Kiều, hay kể chuyện Đông Chu, Tam Quốc v.v... Nói chung, bà là người hay chuyện, nhưng tính nóng nảy, hay gắt gỏng. Bà rất thương yêu tôi, nhưng cũng hay mắng mỏ và nếu trái ý bà, sẽ bị đòn ngay tức khắc. Tuy vậy tôi vẫn nhờn.
Cha tôi chẳng mắng mỏ hay nổi giận với tôi bao giờ, nhưng cũng ít thân mật, trò chuyện với tôi (nói đúng hơn, người lớn chẳng ai rỗi hơi trò chuyện với đứa trẻ lên ba). Nhưng trong trái tim bé thơ của tôi có một cái gì rất thiêng liêng, rất nể sợ cha tôi. Tuy vậy, thỉnh thoảng ông hôn trán tôi, nhìn tôi với cặp mắt hiền từ. Và tình cha con đâm chồi nẩy lộc mà tôi không thể giải thích nổi, và tình cảm sâu sắc, thiêng liêng đó cứ lớn dần.
Chị tôi ngày đi học hai buổi (đó là chế độ dạy và học ở Trung Quốc). Tối đến, chị cũng không nghỉ ngơi. Sáng dậy, tôi thấy cha và chị tôi đã đi từ khi nào rồi. Chị cũng không có thời giờ trò chuyện hay chơi với tôi, nhưng sợi dây tình cảm giữa hai chị em ngày càng xiết chặt một cách vô hình, phải chăng đó là thiên tính?
Một buổi chiều hè, cũng chừng chạng vạng tối, tôi cùng lũ bạn đang nghịch đất ngoài sân, bỗng nghe thấy một tiếng kêu từ trong nhà vọng ra: "Các bà ơi, đến xem kìa, cả nhà dọn đi rồi, bỏ rơi thằng A Bảo đang sốt nằm dưới đất...". Tôi và lũ bạn đứng phắt dậy, tranh nhau chạy ào vào nhà ông Vương (láng giềng của gia đình tôi). Tôi hết sức ngạc nhiên vì thấy gia đình ông Vương dọn đi từ khi nào, hai căn phòng lớn trống không, một đứa trẻ sáu – bảy tuổi bó chiếu nằm trơ trên sàn xi măng. Mẹ tôi và mấy bà đang sờ trán nó và kêu: "Sốt cao quá". Một bà nói oang oang: "Thằng bố nó sợ vợ, mụ dì ghẻ hành hạ thằng bé ăn đói, mặc rét, bây giờ dọn đến chỗ ở mới, nhẫn tâm bỏ rơi thằng bé từ hôm qua đến giờ. Hỏi nó, nó bảo chưa có miếng gì vào bụng...". Các bà kẻ mang thuốc cảm, người bưng bát cháo (người Trung Quốc có thói quen ăn cháo hàng ngày) và sữa, đỡ nó ngồi dậy uống thuốc và ép nó uống sữa, ăn cháo...
A Bảo là con riêng của ông Vương, mẹ chết sớm phải sống với dì ghẻ. Hàng ngày tôi vẫn thấy A Bảo bưng khệ nệ nồi cơm, nồi canh từ nhà bếp lên nhà hoặc xách xô nước lau nhà cửa. Nó hơn tôi vài ba tuổi, người gầy nhom, đầu trọc lưa thưa mấy sợi tóc vàng hoe, da mặt xanh xao vàng vọt. Mẹ tôi bảo vì ăn uống thiếu dinh dưỡng, cho nên không mọc tóc được. Đứa em cùng cha khác mẹ của A Bảo béo mập hồng hào, A Bảo trẹo một bên hông mỗi khi bế em. Có chừng ấy tuổi phải làm đủ mọi việc nhà, mà vẫn bị dì ghẻ đánh đập, chửi bới là "Đồ lười biếng, đồ ăn hại...". Bấy giờ nghĩ lại cảnh sống hàng ngày của A Bảo, tôi mới thấy nó tội nghiệp làm sao, chứ ngày thường tôi chẳng hề để ý gì đến nó. Sáng hôm sau, vừa bảnh mắt tỉnh dậy, tôi vội tụt chân xuống giường chạy sang nhà ông Vương để thăm A Bảo, nhưng trên sàn trống không chẳng thấy nó đâu. Tôi vội chạy về nhà hỏi mẹ, bà bảo: "Mười giờ đêm qua, bố nó về đón nó đi rồi!". Tôi thở phào một cái, nhưng vẫn không khỏi băn khoăn mất vài hôm, đó là nỗi băn khoăn đầu tiên trong đời trẻ thơ của tôi.
Một hôm, mẹ mặc áo len dài và đội mũ cẩn thận cho tôi, cả nhà kéo nhau ra phố, chú Quốc Vọng gọi cả con Xù đi cùng. Đến một tiệm ảnh lớn, cả nhà rủ nhau vào chụp ảnh. Cha mẹ ngồi phía trước, tôi đứng giữa. Mẹ giữ chặt lấy tay tôi cứ như sợ tôi tuột khỏi tay. Chị tôi tròn đôi mắt tươi cười đứng sau cha mẹ, chú Lê Quốc Vọng đứng bên tay phải chị, chú Bùi Hải Thiệu đứng bên tay trái chị. Con Xù ngoan ngoãn ngồi dưới sàn chăm chú nhìn vào máy ảnh. Tấm ảnh chụp vào mùa thu đông năm 1933. Đó là tấm ảnh đầu tiên của đời tôi. Bây giờ nhìn lại, trông tôi thật là ngố, con Xù thật "bảnh trai", đáng yêu...
Vậy mà một hôm chú Quốc Vọng và chú Hải Thiệu lùng sục khắp nơi tìm Xù, tôi cũng lon ton chạy theo sau. Mãi sau mới phát hiện nó bị ai đánh chết nằm trong một vũng nước cách xa nhà. Các chú vớt nó lên chôn cất cẩn thận, cả nhà ai cũng tặc lưỡi tiếc thương nó. Tôi rất buồn, đó là nỗi buồn đầu tiên của tôi, dù là cái buồn của trẻ thơ. Tôi không sao quên được những buổi nô đùa trò trốn tìm, nó hay chạy theo tôi, cái mũi lành lạnh, ươn ướt khịt khịt bàn tay nhỏ của tôi, chính vì nó, tôi luôn bị bạn bắt được quả tang nơi ẩn náu, vậy mà nay tôi mất nó – sự mất mát đầu tiên của đời trẻ thơ.
Một hôm thật khác thường, cha tôi mặc thường phục không đi làm, mẹ xách một va ly vừa đặt ở phòng lớn. Chú Quốc Vọng thắt cà vạt mặc comlê. Trông vẻ mặt mọi người trang nghiêm thế nào ấy. Lát sau mẹ nói: "Thầy đi vắng ít hôm cùng chú Quốc Vọng, con đến hôn thầy đi!". Tôi chạy tới bá cổ hôn vào hai má của cha, ông ôm, hôn vào trán tôi. Về sau mẹ bảo: "Cha con đi công tác Nhật Bản, lâu lâu mới về". Tôi hỏi: "Nhật Bản ở đâu hở mẹ?", "Nhật Bản... ở xa lắm. ở đó có hoàng thân Việt Nam Nguyễn Cường Để..." (Tất nhiên tôi chả hiểu hoàng thân là thế nào, sau này bà hay nhắc tới, tôi mới có ấn tượng về cái tên này). Đó là thu đông năm 1933 (sau khi chụp ảnh cả nhà). Cuộc chia tay đầu tiên ấy với cha tôi, tôi vẫn nhớ như in.
Năm 1988, đọc hồi ký "Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ"[1] của Lê Thiết Hùng (Lê Quốc Vọng về sau lấy tên là Lê Thiết Hùng), cuộc ra đi này chính là thời kỳ cuối cha tôi làm công tác tình báo phục vụ cách mạng với sự trợ giúp của Lê Quốc Vọng, nhằm đánh lạc hướng bọn đặc vụ của Quốc dân đảng.
*
* *
Để nắm rõ bối cảnh lịch sử khi cha tôi thu thập tin tình báo của bộ Tổng tham mưu Quốc dân đảng của cha tôi, xin điểm qua vài nét về nền chính trị Trung Hoa thời bấy giờ:
Tôn Trung Sơn là lãnh tụ vĩ đại của cách mạng dân chủ tư sản Trung Hoa đầu thế kỷ XX.
Tam Dân chủ nghĩa của ông chia làm hai thời kỳ. Thời kỳ đầu, Tôn một mặt chống phong kiến, đế quốc, một mặt lại liên minh với địa chủ, quan liêu và quân phiệt, đồng thời kỳ vọng sự giúp đỡ của các nước tư bản phương Tây. Kết cục, cách mạng Tân Hợi tuy lật đổ vương triều phong kiến, nhưng lại bị thế lực phản động thao túng chuyên quyền. Thời kỳ thứ hai, cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và phong trào "Ngũ Tứ"[2] năm 1919 đã khiến Tôn thức ngộ ra nhiều vấn đề. Tiếp đến là sự ra đời của Đảng cộng sản Trung Quốc, khiến Tôn bổ sung vào cương lĩnh Quốc dân đảng: "Liên Nga, liên cộng, phù trợ công nông và ủng hộ các nước nhược tiểu". Do đó, tháng 12-1921, Tôn Trung Sơn đặt vấn đề với đại diện Liên Xô Malin xây dựng trường quân sự theo mô hình của Liên Xô, Tôn làm Đại nguyên soái kiêm hiệu trưởng.
16-6-1924 khai giảng Trường Hoàng Phố (Quảng Châu) với 500 học viên (đồng chí Nguyễn ái Quốc đã cài những thanh niên yêu nước như Lê Hồng Phong, Lê Tản Anh, Lê Thiết Hùng, Phùng Chí Kiên v.v... vào học quân sự, và vào cả lớp tập huấn chính trị cũng trong thời kỳ này).
Tôn Trung Sơn còn quan tâm bồi dưỡng lực lượng công nông bằng các lớp học ngắn hạn.
Đặc biệt, Tôn Trung Sơn kết nạp cả đảng viên Cộng sản vào Quốc dân đảng để cải tổ và củng cố tổ chức của Quốc dân đảng, rồi tiến hành chiến tranh Bắc phạt, v.v... Đó là thời kỳ Quốc - Cộng hợp tác lần thứ nhất, là một cao trào cách mạng của nước Trung Hoa.
Tiếc rằng tháng 6 năm 1925 Tôn Trung Sơn từ trần và để lại di chúc yêu cầu thực hiện cương lĩnh mới.
Sau khi Tôn mất, Tưởng Giới Thạch đã phản lại di chí của ông. Tưởng thanh trừng đảng viên cộng sản trong Quốc dân đảng, thực hiện mọi biện pháp tiêu diệt thanh niên tiến bộ bị tình nghi là cộng sản và sát hại hàng loạt đảng viên cộng sản. Lúc đó, Đảng cộng sản Trung Quốc xây dựng được căn cứ địa riêng của mình ở một số nơi thuộc vùng Giang Nam. Tưởng thi hành chính sách "đào tận gốc, trốc tận rễ", mở năm đợt tấn công vào khu Xô Viết của đảng cộng sản Trung Quốc...
Khoảng đầu năm 1928, cha tôi nhận được lệnh điều động công tác về Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch. Lúc này ông ta tự phong mình là Tưởng tổng tài, Tưởng ủy viên trưởng, vừa nắm quyền quân sự, vừa nắm quyền chính trị. Do lệnh điều động đó, cha tôi về Nam Kinh làm tham mưu trong Cục bản đồ Bộ Tổng tham mưu của Tưởng.
Sau khi cha tôi ổn định công tác, mẹ và chị tôi mới từ Hàng Châu về Nam Kinh vào khoảng cuối năm 1928, đầu năm 1929. Theo lời mẹ tôi kể, thời gian 1929 - 1930, Thái Lai (Hà Huy Tập), chị Duy (Nguyễn Thị Minh Khai), Lê Tản Anh, Lý Phương Thuận, v.v... đã ở trong nhà tôi quãng thời gian khoảng vài tháng.
Người đảng viên cộng sản đến với gia đình tôi từ năm 1928 và có mối quan hệ gắn bó mật thiết nhất đó là Lê Quốc Vọng, đến năm 1934 đổi tên là Lê Tân Dân (sau này là Lê Thiết Hùng). Lúc đầu tôi gọi ông là chú, đến hè năm 1937, chị tôi thành hôn với ông ấy, tôi gọi bằng anh.
Trong hồi ký "Tôi làm người học trò nhỏ của Bác Hồ" Lê Thiết Hùng kể rằng theo mật chỉ của ông Lý Thụy (Bác Hồ), cha tôi đã bí mật lấy tin của quân đội Tưởng chuyển cho Đảng cộng sản Trung Quốc.
Lê Thiết Hùng viết rằng Tưởng Giới Thạch tin dùng Hồ Học Lãm không chỉ do thời còn đi học ông Lãm giỏi toàn diện các môn và thường giúp Tưởng làm bài, mà còn do ông từng là ân nhân của Tưởng. Sau khi ra trường, hai người cùng tham gia một chiến dịch chinh phạt bọn quân phiệt cát cứ, Tưởng đang gặp nguy khốn thì ông Lãm đem quân tới cứu. Là người ngoại quốc trong một quân đội ngập trong tinh thần đại Hán, ông Lãm chỉ là một sĩ quan cấp tá, nhưng ông được từ các tướng lĩnh nổi tiếng trong quân đội Tưởng như Lý Tế Thâm, Bạch Sùng Hy … là bạn đồng niên, cho tới các sĩ quan trong Bộ Tổng tham mưu Quốc dân đảng kính trọng về tài đức.
Từ đầu năm 1930, quân đội Quốc dân đảng triển khai kế hoạch đánh chiếm các khu xô viết của Đảng Cộng sản Trung quốc. Nhận thấy cách mạng Trung quốc đang gặp muôn vàn khó khăn, ông Lý Thụy (bí danh lúc đó của lãnh tụ Hồ Chí Minh) đã chỉ thị cho đảng viên cộng sản Lê Quốc Vọng (sau này là Lê Thiết Hùng) vận dụng thế hợp pháp trong hàng ngũ Quốc dân Đảng của nhà ái quốc Hồ Học Lãm, để hiệp trợ cách mạng nước bạn.
*
* *
Ông Lê Thiết Hùng viết:
“Tôi quyết định trao đổi với ông Hồ Học Lãm làm thế nào lấy được những kế hoạch tiến công vào các khu xô-viết của Quốc dân đảng, để giúp Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhiệm vụ đồng chí Lý Thụy giao cho tôi vẫn canh cánh bên lòng. Vì thế, một hôm đã khuya lúc chỉ còn lại hai bác cháu, tôi tự thấy mạnh dạn, nêu ý kiến với ông. Ông nói, giọng trầm, đĩnh đạc:
‘Thể xác hình hài của tôi lúc này là Hồ Học Lãm làm tại bộ Tổng tham mưu Quốc dân đảng, còn linh hồn và trái tim tôi thì luôn luôn thuộc về cách mạng. Việc lấy các kế hoạch này, khó khăn lắm đấy, lộ ra thì mất đầu như chơi. Nhưng đã quyết thì làm. Nhất định được.’
Từ mùa hè đến mùa thu năm 1930, Bộ chỉ huy tối cao Hồng quân vẫn thường nhận được những báo cáo mật từ cơ sở chuyển về: địch ra lệnh cấm chuyên chở thóc gạo xuôi theo sông Như Thủy và Cống Giang... Bọn thám báo đã đột nhập, liên lạc được với bọn A. B. (chống cộng) ở Đông Côn, Phủ Diên, Hậu Bị, Đông Thiên... Nhiều cấp sĩ quan quê ở Phúc Kiến, Giang Tây đã được điều động về bộ Tổng tham mưu... Các sư đoàn của tướng Lưu Hòa Dĩnh, Trương Huy Tân, Đàm Đào Nguyên được bổ sung trang bị, quân số, chuyển dịch về phía Giang Tây... Tất cả đều do ông Hồ Học Lãm và tôi chong đèn gần thâu đêm để làm ra những dòng tin ấy.
Bộ Tổng tham mưu Quốc dân đảng tổ chức theo khuôn khổ của quân đội Đức do các cố vấn Đức trực tiếp chỉ đạo. Kỷ luật sắt rất nghiêm ngặt. Sau giờ làm việc, mọi hồ sơ tài liệu đều được niêm phong gửi vào tủ sắt bảo mật. Cán bộ tuyệt đối không được đem theo một mẩu giấy nào về nhà. Người nào biết việc nấy, tuyệt đối không được nói nội dung công tác của mình đang làm cho người khác biết. Khó khăn và tốn kém lắm, ông Hồ Học Lãm mới moi được trong số các sĩ quan cùng công tác trong bộ Tổng tham mưu lúc này, lúc nọ một vài tin tức có liên quan. Nhiều lúc ông phải đi xuống các sư đoàn nghiên cứu, xác định lại. Ông phải nhập tâm những phần việc được trao cho ông soạn thảo, và cả những phần việc của nhiều sĩ quan khác song song cùng làm. Về nhà ông đọc lại từng câu, từng chữ cho tôi ghi lại. Xong, đưa ông xem, sửa chữa, bổ sung những chi tiết chính xác ông vừa gạn lọc xong. Bản đồ quân sự lúc này cũng hiếm, lại không được đem về nhà nên ông phải phỏng theo những bản đồ đường sá, hành chính, vẽ lại cho cụ thể. Đến lượt tôi chuyển giao cho cơ sở của Đảng bạn, cũng phải nhập tâm thuộc lòng như người chủ sự, hướng dẫn lại bằng miệng cho cơ sở nhận, nắm thật vững nội dung. Còn giấy tờ chỉ ghi rất vắn tắt, gạch đầu dòng từng đề mục.
Cuối cùng, toàn bộ bản kế hoạch tiến công khu xô-viết trung ương của Đảng Cộng sản do Tưởng Giới Thạch phê chuẩn đã được ông Hồ Học Lãm và tôi lấy được, gửi tới tay đảng bạn. Phạm vi của cuộc tiến công là vùng tứ giác La Lâm, Nghi Hoàng, Lê Xuyên, Thụy Kim, tọa độ X... Y... Binh lực tham gia từ 10 đến 15 sư đoàn, ước khoảng ba mươi vạn quân. Chia làm nhiều đợt. Thời gian có thể bắt đầu vào những tháng đầu năm 1931.
Ngược lại, tôi cũng được thông báo vắn tắt là Hồng quân cũng có kế hoạch đối phó lớn.
Giữa lúc hai bác cháu chúng tôi đang hồi hộp theo dõi hành động của đôi bên thì được tin đích xác là từ ngày 28 tháng 7, Hồng quân đã mở cuộc tiến công vào các thành phố lớn: Trường Sa, Nam Xương và Vũ Hán. Khẩu hiệu động viên là "Hội sư Vũ Hán, ẩm mã Trường Giang".
- Có thể đây là một cuộc tiến công phá chuẩn bị - Ông Hồ Học Lãm nói, đánh vào thành phố lớn, khó khăn lắm đấy. Liệu có đủ sức không?
Tôi sững sờ trong giây lát.
Những ngày sau tin tức của Bộ Tổng tham mưu Quốc dân đảng vẫn do ông Hồ Học Lãm đưa về: Trường Sa ta chiếm được mười ngày sau phải rút lui. Thành phố Nam Xương chỉ giữ được hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Còn Vũ Hán thì không vào được... Tuyệt nhiên không có nội công ngoại kích ở ba thành phố này. Và cũng không có cuộc binh biến nào trong các đơn vị Quốc dân đảng ...
Thêm hai năm (1931 - 1932) sôi động và căng thẳng đối với tôi. Cuộc hành binh vây quét của Tưởng Giới Thạch vào khu xô - viết trung ương dây dưa kéo dài trên nửa năm mới kết thúc. Lúc đầu với mười vạn quân, Tưởng định đánh một cú là xong. Nhưng đã phải kéo thành ba đợt. Đợt một từ tháng 12 năm 1930 đến tháng giêng năm 1931. Tưởng phải ngừng tiến công (do xâm lược Nhật Bản ở Hoa Bắc). Sáu tháng sau mới mở được đợt hai, quân lực gấp đôi, tức là hai mươi vạn. Đợt ba, vào tháng 7, ba mươi vạn quân do đích thân "Trung Hoa đệ nhất kiệt" (tức Tưởng Giới Thạch) chỉ huy. Lại thua liểng xiểng như đợt hai.
Bao lần trái tim của tôi bị thắt lại. Sau các tổn thất to lớn ở Trường Sa, Nam Xương, Vũ Hán, liệu Hồng quân đã hồi phục lại được sức lực chưa?
Tới ngày Tưởng phải chính thức ra lệnh lui quân, kết thúc đợt ba, tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Cùng lúc trong bộ Tổng tham mưu Quốc dân đảng đã có tiếng xì xào là phải truy lùng nội phản.
Tưởng Giới Thạch cay cú quyết làm một cú nữa vào tháng 6 năm 1932. Như lần trước, toàn bộ bản kế hoạch tiến công vây quét lớn lần thứ hai này đều qua tay ông Hồ Học Lãm và tôi chuyển tới Bộ tư lệnh Hồng quân. Sau lần vây quét này, Tưởng nói: không thắng nhưng cũng không thua!”
Sau đợt này, vì Quốc dân Đảng truy xét nội bộ gắt gao, cha tôi đã đưa Lê Thiết Hùng sang Nhật Bản, lấy tiếng là gặp Hoàng thân Cường Để, thực chất để đánh lạc hướng đặc vụ của Tưởng. Cường Để từng là người cộng tác đắc lực với chí sĩ Phan Bội Châu.
Về đóng góp của nhóm tình báo Hồ Học Lãm trong giai đoạn quyết định của cuộc Quốc - Cộng phân tranh, dẫn đến cuộc Vạn Lý trường chinh năm 1934 – 1935, Lê Thiết Hùng viết:
“Một hôm, đợi cả nhà đã đi ngủ, ông Hồ Học Lãm dẫn tôi vào buồng riêng, cho biết: theo lệnh Tưởng Giới Thạch, Bộ Tổng tham mưu Quốc dân đảng bắt đầu triển khai một kế hoạch tiến công qui mô rất lớn vào khu xô - viết trung ương ở Thụy Kim và các khu khác ở các tỉnh lân cận; làm cỏ, tiêu diệt sạch các đơn vị Hồng quân, đảng viên cộng sản và mọi cơ sở của cách mạng. Theo nhiều nguồn tin, thằng Nhật sắp đánh lớn, chiếm các tỉnh đông dân, nhiều của miền ven biển Hoa Bắc, Hoa Trung, vì vậy, Tưởng Giới Thạch buộc phải hành động trước để tránh hậu họa bị cộng sản và bọn lãnh chúa quân phiệt cát cứ đánh vỗ mặt, đánh sau lưng. Lần này lại có sự tiếp tay hỗ trợ của bọn đế quốc Anh, Pháp và cả Đức nữa. Bọn này vẫn thậm thụt ra vào Bộ Tổng tham mưu. Quyết liệt lắm đấy.
Những ngày tiếp sau, cho tới đêm khuya ông Hồ Học Lãm và tôi vẫn chong đèn ngồi rất lâu trên tấm bản đồ quân sự trải rộng. Có lần chúng tôi nhập vai Tưởng Giới Thạch, lên phương án tác chiến; hoặc ngược lại đứng về phe Hồng quân Trung Hoa đối phó. Có nhiều đêm chúng tôi tranh cãi khá sôi nổi về cách đánh của bên này, cách chống trả của bên kia. Mỗi người bảo vệ giả định của mình. Những tấm bản đồ quân sự của các tỉnh Giang Tô, Triết Giang, An Huy, Giang Tây, Phúc Kiến... chi chít những mũi tên xanh đỏ, những ký hiệu sở chỉ huy, trận địa pháo mỗi ngày một đậm nét. Gần như hai chúng tôi đều thuộc lòng địa hình, địa vật quanh khu vực Thụy Kim với những tên làng, huyện, tên núi, sông, các đường ngang dọc, các điểm cao, bãi bằng...; thuộc lòng phiên hiệu các quân đoàn, sư đoàn Quốc dân đảng, tên tuổi, cá tính của từng tướng lĩnh chỉ huy các đơn vị dự kiến sắp được tung vào cuộc chiến nay mai. Về phía Hồng quân, chúng tôi cũng nắm chắc được tình hình mạnh yếu của từng đơn vị và các tổ chức cơ sở quần chúng tại các khu xô - viết. Song tôi vẫn thấy lo lo mỗi khi nhớ lại từ cuộc khởi nghĩa ở Quảng Châu năm 1927 mà tôi có trực tiếp tham gia đến kế hoạch "hội sư Vũ Hán, ẩm mã Trường Giang" đánh vào các thành phố của địch. Những lần ấy, hễ đánh không xong, phải rút, thì địch lại đến tàn sát hàng chục vạn dân lành vô tội. Tôi luôn luôn day dứt: liệu lần này các bạn có đứng vững và đập tan được cuộc tiến công lớn của bọn Tưởng hay không? Nhìn về phương Nam, Tổ quốc xa vời vợi. Sau Xô - viết Nghệ Tĩnh, bao khó khăn gian khổ đã đến với cách mạng ta, Đảng ta: lãnh tụ Nguyễn ái Quốc bị bắt, các đồng chí Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Lương Bằng, Lê Quảng Đạt, Lưu Quốc Long... lần lượt sa vào tay giặc Pháp. Hôm nghe tin Lưu Quốc Long, người đồng chí nối khố với tôi, nhảy từ trên gác ba xuống, hy sinh, tôi không sao cầm được nước mắt. Còn bao đồng chí khác nữa?
Giữa chừng công việc, tôi lên Thượng Hải chủ động tìm đến người đại diện mới của Đảng Cộng sản Trung Quốc mà tôi vừa được giới thiệu để thông báo, phối hợp, đối chiếu với các nguồn thông tin từ phía Đảng bạn thu thập được. Tưởng là ai, hóa ra là một bạn đồng học ở Võ bị Hoàng Phố trước đây, lúc này mang tên là Toàn Phong. Gặp nhau, chúng tôi nắm chặt tay nhau đến đau điếng. ở Trung Quốc, tình đồng hương, đồng học, đồng khóa là thiêng liêng trong tiềm thức, tập quán dân tộc. Toàn Phong lớn hơn tôi vài tuổi. Hai người hồi học Hoàng Phố đã có nhiều ý hợp tâm đồng. Tôi không tiện hỏi nhưng cũng đoán Toàn Phong đang giữ một trọng trách nào đó trong Đảng bạn. Toàn Phong tha thiết đề nghị với tôi là tìm mọi cách lấy cho bằng được kế hoạch tiến công lần này của Tưởng Giới Thạch.
- Qua các nguồn tin - tôi nói - Chúng nghiên cứu rất kỹ sự chỉ đạo tác chiến và cách đánh của Hồng quân để tìm ra một cách đánh có lợi nhất cho chúng.
- Đồng chí thử cho vài dẫn chứng.
- Rút kinh nghiệm các lần trước, đại quân của chúng tiến ào ào vào địa khu của ta, thường không gặp chủ lực của Hồng quân, đến lúc quân của chúng mệt mỏi mới đánh, hoặc khi chúng lui quân thường mới bị truy kích, nên chúng thường bàn với nhau là làm sao không bị "bọn đỏ" cho vào bẫy.
- Đúng đấy - Toàn Phong đáp, giọng hào hứng - kinh nghiệm trên hai chục năm tiến hành du kích chiến tranh của Đảng chúng tôi đã đúc kết lại thành những nguyên tắc chỉ đạo tác chiến cho Hồng quân và các lực lượng vũ trang khác trong toàn quốc.
Tôi kiên nhẫn ngồi nghe người đồng chí của Đảng bạn thuyết trình về những điều hay, điều lợi của những nguyên tắc đó.
- Trong quân sự còn vấn đề vận dụng linh hoạt - tôi nói - Ngay như Nã Phá Luân (Na-pô-lê-ông), một nhà quân sự có tài cũng nói đại ý là thực địa chi phối cả cách cầm quân. Trong Tôn Ngô binh pháp cũng nói nhiều đến thực tế chiến trường.
Toàn Phong ngắt lời tôi:
- Đúng là có vấn đề vận dụng linh hoạt. Nhưng nguyên tắc thì bao giờ cũng là nguyên tắc. Nã Phá Luân dù sao cũng sinh trưởng trước chúng ta hơn một thế kỷ.
Trước khi từ biệt người bạn học cũ, giờ là người cộng tác chặt chẽ với mình, tôi kiên trì nhắc đi nhắc lại: Nó đánh lần này có nhiều cái khác đấy. Trên đường về tôi không khỏi bâng khuâng suy nghĩ. Toàn Phong mới ngày nào còn là học sinh quân, rất trí thức, mà nay đã khác nhiều rồi.
*
* *
Khoảng vài ba ngày ông Hồ Học Lãm lại cung cấp cho tôi một số chi tiết: - Bí mật lắm. Đích thân Tổng tham mưu trưởng điều hành công việc, thành lập một ban công tác đặc biệt gọi là Biệt phái Ban. Tổng tham mưu trưởng duyệt danh sách từng người... Tôi cũng có trong danh sách Biệt phái Ban. Số người trong Ban rất hạn chế.
Việc ông Hồ Học Lãm được chỉ định là một thành viên tham gia xây dựng kế hoạch tác chiến này là một điều rất thuận lợi cho công việc của tôi. Ông được phân công làm tổ trưởng tổ hậu cần bảo đảm cho gần hai chục quân đoàn, sư đoàn và nhiều đơn vị trọng pháo, súng cối, thiết xa và một vài phi đội máy bay cường kích, thám thính, mới được bọn đế quốc Anh - Pháp - Đức viện trợ. Tất cả ước tính một triệu quân.
- Một triệu quân? - Tôi thốt lên.
- Một triệu quân. Đúng đấy. Nhưng dự bị đội rất nhiều. Chưa biết rõ ý đồ sử dụng của họ ra sao?
Những ngày tiếp sau, ông Hồ Học Lãm đi làm về, nom rất phờ phạc, ăn uống sút hẳn đi. Ăn xong ông nằm chợp mắt một hồi lâu, có khi cả nhà sắp chuẩn bị ngủ ông mới ngồi vào bàn. Ông nhớ lại và đọc cho tôi ghi những con số rất lớn dự trù về xăng dầu, đạn dược, thuốc nổ, phương tiện vận tải phục vụ, về vật liệu: xi măng, gỗ, đá, sắt thép... Con số về lương thực, thực phẩm càng ghê gớm hơn nữa. Theo ông thì chưa thấy một lần nào họ dự trù ghê gớm như lần này.
Suy nghĩ hồi lâu, ông ngủ luôn trên ghế. Tôi che bớt ánh sáng ngọn đèn canh giấc ngủ cho ông. Những con số năm chục vạn tấn, một triệu tấn, chục triệu tấn cứ như nhảy nhót trước mắt. Có đêm tôi thức trắng, trằn trọc nhưng sớm ra, lại mũ áo chỉnh tề đi làm. Có buổi trưa ông không về. Buổi chiều về nhà ăn cơm xong lại thấy ông đi. Có lúc ông đến cơ quan tiếp tục làm. Có lúc không thấy ông đến cơ quan nhưng đi đến gần nửa đêm mới về. Cả nhà đều biết ông đi là có việc rất cần. Mọi người đều nén lòng không hỏi ông điều gì, khỏi làm ông bị phân tán tư tưởng.
Một hôm, ông về với vẻ mặt tươi tỉnh. Sau bữa cơm chiều, bỏ qua lệ nghe đài, uống nước, ông kéo tôi vào phòng riêng nói nhỏ:
- Đúng như tôi dự đoán từ lâu, chưa nói cho anh biết. Hôm nay họ vừa giới thiệu riêng với chúng tôi một đoàn võ quan Đức do viên tướng Xiếc-tơ (Seekt) cầm đầu, sang làm cố vấn cho Tưởng Giới Thạch. Tưởng Giới Thạch đã làm việc với họ ở tư thất. Mấy ngày qua họ làm việc riêng với Tổng tham mưu trưởng và tổ lập đồ án tác chiến. Tổ hậu cần của tôi, tổ điều hành của Trần tướng quân, cũng không được tham gia. Tuyệt đối bí mật - Ông dừng lại một lúc lâu mới nói tiếp: Lần này các cố vấn Đức cùng với họ thảo luận nghiên cứu kỹ, rất kỹ mấy nguyên tắc chỉ đạo tác chiến của Hồng quân. Rút kinh nghiệm mấy lần trước, các cố vấn Đức bày cho Tưởng đánh theo kiểu trận địa chiến. Chiếm được đâu lập trận địa kiên cố đến đó, có hỏa lực mạnh mẽ của pháo binh chi viện. Đồng thời triệt để thực hiện chính sách "tam quang" (đốt sạch, phá sạch, giết sạch). Cốt để phía bên kia (ý nói Hồng quân) phải húc đầu vào trận địa kiên cố, bị đại quân, đại pháo của họ nghiền nát. Nếu Hồng quân vẫn áp dụng cách đánh vừa du kích vừa vận động thì họ đã được những "vỏ áo giáp" che chở rồi.
Dựa vào nguồn tin chính xác của ông, tôi lập tức tìm cách truyền đạt lại kỹ càng cho đảng bạn.
*
* *
Tháng 10 năm 1933, cuộc đại tiến công quy mô chưa từng có của Tưởng Giới Thạch vào khu xô - viết Trung ương ở ranh giới hai tỉnh Phúc Kiến và Giang Tây bắt đầu. Đích thân Tưởng Giới Thạch và viên thượng tướng Xiếc-tơ (Seekt) cố vấn người Đức trực tiếp chỉ đạo, điều hành. Phần lớn cơ quan Bộ tổng tham mưu Quốc dân đảng xoay quanh phục vụ. Chiến cuộc không ào ào như sóng dâng, lửa cháy mà thận trọng từng bước. Báo chí công khai, các bản tin mật cũng nói với một mức độ vừa phải so với quy mô tầm vóc của nó. Cuộc chiến kéo dài từ tháng 10 năm trước đến tháng 9 năm sau. Giữa chừng, Tưởng Giới Thạch phải tạm ngừng tiến công do có sự nổi dậy của quân đoàn 19 của Thái Đình Khải ở Phúc Kiến chống lại Tưởng. Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân đã bỏ lỡ cơ hội này.
Một năm trời ông Hồ Học Lãm bận túi bụi. Ông phải điều hành công tác hậu cần chiến dịch đòi hỏi ngày càng lớn "càng cấp bách theo quân lệnh". Nhìn lại việc đánh trả của Hồng quân, nhiều lúc ông phát bực nói với tôi:
- Không hiểu làm sao lúng túng bị động đến thế? Nó đã thay đổi cách đánh rồi mà mình thì cứ khư khư đánh theo lối cũ. Anh hãy giải mã mật điện này rồi tìm cách chuyển ngay cho Hồng quân.
Thời gian này, tôi cũng bị xoay chong chóng, hết đi, lại về gặp các đầu mối liên lạc. Địa điểm gặp nhau từng lúc lại phải thay đổi. Cả nhân mối cũng vậy. Sau Toàn Phong lại đến người khác.
Hồng quân theo nguyên tắc chỉ đạo tác chiến cũ, lúc đầu định nhử địch vào sâu mới đánh. Mặc dầu trước đó đã có nhiều ý kiến bàn luận nên chủ động đánh địch từ phía ngoài khu căn cứ. Giữa chừng mới thay đổi - Mở cuộc phản công lớn vào khu trắng (khu Quốc dân đảng) tức vào hậu phương chiến dịch của địch.
- Muộn quá rồi - Ông Hồ Học Lãm được tin, đập tay xuống bàn: Đánh vào khu trắng ở phía bắc Lệ Xuyên - Ông chỉ vào bản đồ - gặp phòng tuyến kiên cố của địch, không thành công. Định phá cái cầu Tự Khê trên tuyến vận chuyển huyết mạch của Bạch quân, cũng không được. Gay go đấy.
Những tin tức tiếp sau về hoạt động của Hồng quân cũng không làm cho mọi người phấn chấn lên chút nào. Hồng quân từ khu trắng ở vòng ngoài chuyển dịch vào quãng giữa. ở đâu cũng vấp phải tuyến chiến hào kiên cố của chúng.
Dần dà diễn biến chiến đấu giảm dần tốc độ và cường độ, có lợi cho Tưởng Giới Thạch. Ông Hồ Học Lãm chỉ còn một cách ngầm chi viện cho Hồng quân là trì hoãn hay làm chậm được giờ nào hay giờ ấy công tác tiếp tế hậu cần. Tôi đi gặp người của Đảng bạn cũng không còn nhiều nội dung để thông tin trao đổi nữa. Một sự lo lắng bao trùm.
Cho đến ngày được tin đích xác là toàn bộ các lực lượng vũ trang của Hồng quân và Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã phải bỏ các khu căn cứ, với hàng mấy chục triệu dân, tiến hành cuộc Vạn lý trường chinh theo hướng lên Tứ Xuyên, Thiểm Tây, Cam Túc, từ Bộ Tổng tham mưu về, ông Hồ Học Lãm liền gieo mình xuống ghế, ngồi lặng đi hồi lâu. Tôi ngồi bên cạnh ông, như ngồi trên đống lửa.
- Lẽ ra thì đâu đến nỗi như thế này. Mất hết đất, mất hết dân! - Nói xong ông đứng dậy, chậm chậm đi vào phòng của mình, khép chặt cửa lại.
Chưa bao giờ tôi thấy trong lòng trống rỗng vô hạn như lúc đó".
Qua hồi ký của Lê Thiết Hùng, có thể nhận thấy rằng cho dù không được trực tiếp dự những trao đổi giữa Tổng tham mưu trưởng và Tổ lập đề án tác chiến của Quân đội Quốc dân Đảng với các cố vấn người Đức, ông Lãm vẫn có cách nắm bắt được nội dung của kế hoạch tác chiến để truyền đạt cho Hồng quân Trung Hoa.
ở chương sau, Lê Thiết Hùng viết tiếp về những diễn biến cuối cùng của cuộc Vạn Lý Trường Chinh.
“... Từ một năm nay, tôi chỉ được biết tin tức cuộc rút lui lên phía Tây Bắc của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân Trung Hoa qua các bản báo cáo gửi về Bộ Tổng tham mưu Tưởng Giới Thạch do ông Hồ Học Lãm nói lại. Gần đây, theo báo cáo tổng hợp cuối cùng thì "quân Cộng sản" đã tới Báo An và Diên An thuộc tỉnh Thiểm Tây. Cứ theo như báo cáo này thì "quân Cộng sản" đã mười phần chết chín, đợi ngày tan rã. Được tin này, cả ông Hồ Học Lãm và tôi đều xót xa vô cùng."...
[1] “Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ”, đăng nhiều kỳ trong các số 8, 9, 10 Tạp chí Lịch sử quân sự, 1986; NXB Quân đội nhân dân, 2002.
[2] Một cuộc vận động cách mạng của các tầng lớp nhân dân trung quốc chống một quyết nghị của Hiệp định Versailles, theo đó một tỉnh của Trung Hoa chuyển thành lãnh thổ của Nhật Bản, nổ ra vào ngày 4 tháng năm, 1919. Các học giả cho rằng thắng lợi của của phong trào này đã đưa đến sự truyền bá sâu rộng tư tưởng cộng sản vào Trung Hoa qua các trí thức như Lý Đại Chiêu, Trần Độc Tú … dẫn tới sự thành lập ĐCS Trung quốc năm 1921.
(3)
CHƯƠNG III
Khoảng đầu hè năm 1934 (đầu tháng 4), gia đình tôi dọn về ở một biệt thự hai tầng có vườn cây rộng đẹp, đó là Mai Viên Tân Thôn.
Tôi rất thích nơi ở này vì nó rộng rãi, thoáng đãng song vì biệt lập cho nên tôi không có bạn bè, chỉ thui thủi chơi một mình ngoài vườn hoa. Tầng một có nhiều phòng, bếp và các công trình phụ. Tầng trên gồm một phòng lớn của mẹ và tôi, cạnh đó một phòng đóng im ỉm suốt ngày là phòng chị tôi. Đối diện phòng của hai mẹ con là phòng cha, gồm hai phòng nhỏ cách nhau bằng một hành lang và cầu thang. Phòng của cha rộng khoảng 11, 12 mét vuông có cửa sổ thoáng mát và ánh sáng chan hòa. Nhưng cha đi làm việc suốt ngày. Trong phòng bày biện vẫn như phòng của ông ở Pháng Ngọa Cảng, chỉ khác một điều ngày chủ nhật ông làm việc không phải chong đèn. Bàn làm việc của ông vẫn đầy sách báo, cạnh phía sau phòng cha tôi là một phòng kho nhỏ để va ly đồ đạc.
Cũng như ở Pháng Ngọa Cảng, một số người yêu nước Việt Nam lại tới nhà tôi ở. Nhưng họ thoắt hiện, thoắt biến bất thường, tôi chẳng nhớ nổi mặt ai, tên ai ngoài chú Quốc Vọng.
Có một ký ức khó quên là ngôi nhà này rộng và vắng vẻ quá. Đêm, tôi hay bị một số bóng hình hư ảo trên trần nhà ám ảnh, đó là những hình tầu xe, người đi kẻ lại làm tôi hoa mắt (có lẽ bệnh hoang tưởng của trẻ em chăng?). Có đêm tôi thấy một con chó lông trắng đi từ phía cửa phòng cha tôi tới gần phòng hai mẹ con, hễ tôi chớp mắt vì mỏi thì thấy con chó lại ở đầu hành lang bên kia. Hiện tượng đó kéo dài khiến tôi sợ, vì trong nhà không nuôi chó, tôi kêu lên: "Mẹ ơi con sợ", bà vội bế tôi nằm vào phía trong sát tường, sau đó tôi mới ngủ được. Đến giờ tôi cũng không hiểu hiện tượng đó là nguyên nhân tại sao?
Một buổi sáng đẹp trời, mẹ mặc áo váy đẹp cho tôi và xách một va ly con bằng mây, dắt tôi ngồi lên xe kéo tay ra ga xe lửa. Bà mua vé hạng hai rồi đưa tôi lên ngồi trên toa xe khá sang trọng. Tàu chạy qua làng mạc, cánh đồng lúa, các ga xép, kẻ xuống người lên trông nhộn nhịp và lạ mắt. Buổi trưa, mẹ gọi mấy món ăn, họ bưng một khay vuông có nhiều món đẹp mắt và ngon. Tôi rất thích thú và ăn ngon miệng, trong bụng nghĩ đi đâu mà thú vị quá nhỉ, ước gì mẹ thường xuyên đưa mình đi chơi như vậy! Cuối cùng tầu dừng ở một ga lớn, mẹ và tôi lại ngồi xe đến một khách sạn trung. Sau khi rửa mặt, thay quần áo sạch sẽ, mẹ dắt tôi đến một nơi đông người, toàn những người lạ hoắc, tôi không nhớ mặt người nào cũng không biết tên một người nào, chỉ biết mọi người ngồi cả buổi rất buồn tẻ vì chỉ thấy họ nói cái gì đó. Đến bốn năm giờ chiều, hai mẹ con lại lên xe lửa, ngồi toa hạng ba ra về. Vì đi đêm, tôi ngủ gật trong lòng mẹ...
Nhưng chuyến đi đó để lại một ấn tượng mới mẻ, sâu sắc, bởi vì đó là chuyến đi bằng xe lửa đầu tiên trong đời tôi. Khi lớn lên, hồi tưởng chuyến đi thú vị đó, tôi hỏi mẹ. Bà bảo: "Đó là thành phố Thượng Hải, một thành phố lớn và phồn hoa nhất Trung Quốc, cũng là một thành phố có nhiều tô giới các nước như Pháp, Anh, v.v... Mình chỉ đến khu ở của người Trung Quốc thôi, nếu lạc sang tô giới Pháp dễ bị bắt lắm...", "Thế hôm ấy đến Thượng Hải làm gì hở mẹ?", "Anh Cả Nguyễn Lương Bằng triệu tập thầy con đến họp Mặt trận phản đế đồng minh. Vì bận, thầy con không đi được, mẹ đi thay".
Chính ở đây tôi gặp ông Nguyễn Ái Quốc, nhưng do còn quá ít tuổi nên tôi không nhớ được gì thật rõ rệt. Năm 1954, tôi gặp lại Bác ở nhà anh Nguyễn An Ninh, Bác cười nhắc: "Mới ngày nào còn mặc quần thủng đít mà bây giờ to nậy như thế này". Tôi cãi vì tôi chỉ nhớ gặp Bác năm tôi mười hai, mười ba tuổi, (khoảng 1943 - 1944) tại Liễu Châu. Bác nói là gặp tôi ở Thượng Hải. Khi kể lại chuyện này cho mẹ tôi nghe, bà giật mình vì trí nhớ của Bác.
Chúng tôi ở Mai Viên Tân Thôn có một tháng thì dọn về số 10 Tam Sơn Lý. Sau này tôi hỏi mẹ: "Mai Viên Tân Thôn đẹp thế sao không ở đó, có thích hơn không?", "Tiền thuê nhà đắt quá, nhà mình không kham nổi", "Đắt là bao nhiêu, còn ở Tam Sơn Lý là bao nhiêu?", "Thuê ở Mai Viên Tân Thôn mỗi tháng 120 đồng quốc dân tệ, thuê ở Tam Sơn Lý có 70 đồng một tháng thôi. Nhà mình phải nuôi các anh em yêu nước trong nhà cũng tốn kém lắm,... nếu không khéo thu xếp thì không nuôi nổi được đâu. Họ có khó khăn mới đến ở nhờ mình, con ạ". Họ là những ai, mãi về sau tôi mới hiểu. Bởi vì thời điểm đó tôi mới ba tuổi rưỡi, và tôi những tưởng mình là người Trung Quốc, đồng loại với những người hàng xóm. Mẹ tôi dặn: "Ai hỏi con là người ở đâu? Con trả lời mình là người Quảng Đông, Hoa kiều ở Indonesia về...".
Tam Sơn Lý là khu chung cư với nhiều biệt thự hai tầng. Khu đó rộng rãi, có tường bao quanh. Cả khu có năm dãy, mỗi dãy có bốn ngôi biệt thự, xây cùng một kiểu. Giữa các dãy nhà biệt thự là đường bê tông rộng 8 đến 10 mét, ô tô ra vào thoải mái. Ngôi nhà chúng tôi ở gần cuối dãy thứ ba. Trẻ con trong khu kết bạn thoải mái, mặc dù các gia đình sống biệt lập và không quan hệ với nhau. Cho nên ngôi nhà chúng tôi ở là một vương quốc riêng, với lối sống hoàn toàn Việt Nam.
Tầng trên có hai phòng lớn. Phòng trong rộng khoảng 16 mét vuông của mẹ và tôi, phòng ngoài rộng nhất, khoảng 20 mét vuông kê hai tủ sách, một bàn làm việc, một giường đơn. Khoảng cuối năm 1934 đầu năm 1935, có chú Đặng Xuân Thanh đến ở đó. Chú biết cha tôi nuôi nhiều đồng hương từ Việt Nam sang, kinh tế không sung túc cho lắm, cho nên hàng tháng chú đưa cho mẹ tôi một khoản tiền nhỏ coi như tiền thuê nhà. Chú học ở Đức về. Cha tôi xin cho chú vào làm ở bộ phận dịch thuật tài liệu quân sự của Bộ Tổng tham mưu. Vì chú giỏi chữ Hán, tiếng Anh, Pháp và Đức, do đó sau một thời gian làm việc được phong quân hàm đại úy. Cạnh phòng mẹ là phòng cha tôi, rộng khoảng 14 - 15 mét vuông, cửa sổ thoáng rộng, ánh sáng chan hòa. Trước hai phòng lớn là hành lang, đối diện phòng mẹ là phòng chị khoảng 15 - 16 mét vuông. Cạnh phòng ngoài là phòng tắm, trước phòng tắm là cầu thang xuống tầng một. Cạnh phòng chị và phòng cha có một lối đi nho nhỏ, có một thang sắt dựng đứng lên sân thượng. Trên sân thượng có một phòng nhỏ khoảng 6, 7 mét vuông. Về sau chú Văn (người Lào) ngủ một mình ở đấy, vì chú thích ở riêng. Tầng một có cấu trúc tương tự, hai phòng lớn dành cho các chú ở, phòng cha tôi thẳng xuống là kho chứa thực phẩm, v.v... Phòng chị và hành lang thẳng xuống là một phòng rộng lớn khoảng 25 mét vuông đặt một bàn ăn vuông to rộng có thể ngồi 8 người. Khi đông người, kéo bốn cánh hình bán nguyệt ở bốn góc bàn lên, sẽ thành một bàn tròn to. Ngoài ra, một nhà tắm và hành lang khá rộng mở ra phía cửa ra vào của ngôi biệt thự. Tại đó là bếp nấu ăn cho cả nhà. Nồi nấu cơm bằng chảo gang to, một chảo gang vừa để xào nấu thức ăn. Chất đốt là củi to bằng cái đòn xe.
Từ ngày dọn về Tam Sơn Lý, các chú người Việt về ở rất đông và ở lâu. Sau này mẹ cho biết, chỗ ở Pháng Ngọa Cảng tiền thuê nhà chỉ có 20 đồng quốc dân tệ. Nếu chỉ cho gia đình bốn người chúng tôi ở là được. Mặc dù chỗ ở không sang, nhưng căn hộ gia đình tôi ở là dãy thứ nhất, trước mặt dãy nhà là sân rộng và khoảng trống mênh mông, kể cũng thoáng. Vì chú Quốc Vọng yêu cầu tìm chỗ ở rộng và biệt lập để đón nhiều người đến ở trong nhà. Nếu ở chung với người Trung Quốc sợ lộ nhà mình toàn người nước ngoài thì thật bất tiện và nguy hiểm. Do đó chú Quốc Vọng tìm thuê nhà ở Mai Viên Tân Thôn, nhưng vì tiền thuê nhà đắt quá, chú lại đi lùng sục khắp nơi, cuối cùng tìm tới địa điểm này. Kể ra chỗ ở này cũng khang trang, chỉ thiếu vườn hoa thôi, trẻ con thích hoa, cho nên tôi vẫn quyến luyến Mai Viên Tân Thôn.
Dọn về Tam Sơn Lý đúng đầu hè 1934 (khoảng giữa tháng 5), tôi lớn thêm một tuổi. Có lẽ vì tôi đã lớn? Cũng có lẽ vì các chú đến ở nhà lâu dài, không còn tình trạng thoắt hiện thoắt biến, cho nên tôi nhớ hầu hết tên các chú như: Chú Thược (Đặng Văn Cáp, sau năm 1954 là Viện trưởng Đông y Trung ương), chú Đức, Giai, Lộc, Trình (Đỗ Đăng Trình), Hải (Phi Vân, Nguyễn Hữu Căn), Hoa (Lý Quang Hoa, Hoàng Ngọc Ân), Long (Từ Chí Kiên, biệt danh Long Cong), Trụ đen (Lê Quốc Trụ), Liễu (Mạnh Văn Liễu - Phùng Chí Kiên), Văn (người Lào), Cao (Cao Hồng Lĩnh), v.v...
Chú Lê Quốc Vọng, nay đổi tên là Lê Tân Dân thời kỳ này không ở trong nhà nữa, cha tôi xin cho chú làm "Liên phó" Đại đội phó ở binh đoàn xe hơi (khí xa binh đoàn) đóng cách Nam Kinh 100 cây số. Thỉnh thoảng, chú có về chơi nhà tôi một vài hôm.
Cũng như tầng hai, các phòng tầng một có sàn bằng gỗ, hai phòng ngủ của các chú luôn được lau sạch bóng. Phòng ngoài chỉ kê một giường đơn và một bàn làm việc, phòng trong kê một giường đôi. Mùa hè các chú nằm dưới sàn ở hai phòng với bốn cái quạt. Mùa đông thiếu chăn, đệm các chú ngủ chung và dồn vào một phòng với một lò sưởi than đá (cái lò thiết kế rất kín, có ống thông khói thoát ra ngoài trời). Hàng ngày mẹ tôi đặt vài tờ "nhật báo", tạp chí v.v... Một số chú là công nông, văn hóa thấp, không đọc sách báo được, mẹ tôi mua bộ cờ tướng để các chú giải trí. Với con mắt trẻ em, tôi thấy cuộc sống trong gia đình đông vui, êm ấm.
Về Tam Sơn Lý, mẹ tôi mua sắm nhiều thứ trong gia đình (không đơn giản như ở Pháng Ngọa Cảng) như bàn ghế ăn, chăn, đệm, quạt, lò sưởi v.v... Sau này mẹ kể nhờ thời gian ở Pháng Ngọa Cảng ít người ở trong nhà, bà dành dụm được mấy trăm quốc dân tệ. Về Tam Sơn Lý nhờ số tiền đó mới mua sắm được nhiều thứ nhưng cũng chỉ là tối thiểu để sử dụng trong gia đình.
Ở Trung Quốc, đồ gỗ rất đắt tiền. Có một thời gian, trong nhà cha mẹ tôi có tới hai mươi người đến ở, phải chia làm hai bàn ăn. Thức ăn hàng ngày có thịt, cá đầy đủ, thỉnh thoảng các chú mổ gà, vịt, gói nem rán, v.v... Vì thèm thức ăn dân tộc, thỉnh thoảng mẹ tôi mua nước mắm và mắm tôm về ăn. Người Trung Quốc chủ yếu ăn xì dầu, nếu ăn nước mắm hay mắm tôm là sang, vì những thứ đó đắt hơn xì dầu. Thỉnh thoảng mẹ tôi mua bánh mì bơ (cũng là thứ đắt tiền) ăn sáng cho cả nhà. Bình thường chỉ ăn cơm rang, mỳ sợi, cháo hoa với trứng muối, trứng bắc thảo v.v...
Về sau mẹ kể, giá cả những năm đầu thập kỷ hai mươi rất rẻ. Ăn kham khổ, mỗi người một tháng chỉ mất 3 đồng quốc dân tệ, ăn vừa phải là 5 đồng, ăn khá là 7 đồng, ăn sang và ngon là 12 đến 15 đồng. Tôi tò mò hỏi: "Thời kỳ đó nhà mình ăn mất bao nhiêu tính theo đầu người hả mẹ?" Bà trả lời: "Thuê nhà mất 70 đồng, điện nước cũng phải đến 20 đồng. Chi tiền ăn cho cả nhà tùy số lượng người khoảng 70 đến 100 đồng hoặc có khi hơn. Người ăn đông, nấu nướng cũng dễ hơn con ạ...". Tôi tròn con mắt nhìn mẹ và hỏi: "Mẹ có dành dụm được xu nào không?". "Tháng ít người thì tiết kiệm được chút ít, tháng đông người đành dè xẻn, ăn uống kham khổ một chút rồi cũng xong... Tiền lương trung tá của thầy con là 220 đồng. Thầy con có chế độ sử dụng hai cần vụ, để cần vụ trong nhà cũng bất tiện cho sinh hoạt của nhà mình, do đó thầy con lấy cớ để vợ đảm đương việc nhà, đề nghị cơ quan cho nhận tiền cần vụ. Mỗi cần vụ là 10 đồng, như vậy là 20 đồng, vị chi thu nhập hàng tháng của thầy con là 240 đồng. Mẹ cứ liều liệu mà chi tiêu thôi... Trên đây tính chỉ là đại khái thôi, chứ thực ra mọi thứ chi phí trong nhà không thể kể hết được... Ví dụ các chú ốm đau, đi bệnh viện khám bệnh, thuốc men cũng do thầy con chi tiền ra... Chú Lý Quang Hoa mắc chứng đau đầu, đi khám bệnh ở bệnh viện "Cổ Lâu" cũng khá tốn kém, nhưng khám mãi mà chẳng tìm thấy mầm bệnh từ đâu? Thấy tốn kém quá, chú đành thôi việc chữa bệnh. Ngoài ra còn chi học phí cho chị con nữa chứ...".
Qua câu chuyện mẹ kể sau này, khi tôi đã mười hai, mười ba tuổi, tôi mới hiểu sự khó khăn của cha mẹ tôi, đó là lý do tại sao hồi trước, tôi xin cha tôi mua đàn pianô, ông trả lời đơn giản: "Thầy không có tiền..". Trong lòng tôi bất bình: "Trong nhà nuôi nhiều người thế mà thầy bảo không có tiền... Chắc thầy tiếc tiền". Cũng như khi tôi hỏi: "Tại sao không cho chị học đại học?", mẹ cũng bảo là không có tiền. Ấy là chuyện sau này mẹ tôi kể lại thì biết vậy, chứ khi đó tôi vẫn là đứa trẻ bốn, năm tuổi, chỉ biết nô đùa suốt ngày ngoài đường với các bạn thôi.
Tôi còn nhớ hôm đầu ông Lý Quang Hoa đến nhà tôi. Một buổi chiều, khoảng hai, ba giờ tôi kêu đói, mẹ đang rang cơm cho tôi thì nghe tiếng chuông cửa. Bà mở cửa và tôi đứng ngay cạnh, thấy một người đàn ông mặc Âu phục (các chú ra ngoài đường đều mặc Âu phục, riêng cha tôi thích mặc quần dài và áo dài thụng, mùa đông cũng như mùa hè) bước xuống xe kéo, hỏi bằng tiếng Trung Quốc trọ trẹ: "Đây có phải nhà Hồ Học Lãm tiên sinh không?". Mẹ tôi trả lời: "Chính phải, ông là ai?". Người đến bèn trả lời bằng tiếng Việt: "Tôi là Lý Quang Hoa, người làng cụ Hồ". (Thời đó, ai cũng gọi cha tôi là cụ Hồ, gọi mẹ tôi là chị Hồ, hay bà Hồ - theo phong tục xưng hô bằng họ của người Trung Quốc). Mẹ tôi nhường đường: "Mời anh vào". Chú Hoa đến ở nhà tôi sau nhiều người cách mạng Việt Nam khác. Chú luôn kêu đau đầu, không thích ăn cá. Hàng ngày, chú chỉ đọc báo và đánh cờ. Vì chú viết chữ Hán rất đẹp, ít lâu sau cha tôi xin cho chú làm văn thư trong cơ quan Bộ Tổng tham mưu. Vì chú chưa qua trường quân sự, nên lúc đầu được phong là binh nhì. Sau thời gian thử việc, chú được phong cấp chuẩn úy (Thời bấy giờ Trung Quốc không có máy chữ, cho nên phải có những người chữ đẹp chuyên chép các công văn hay báo cáo).
Một buổi trưa hè, sau khi chơi trò trốn tìm ngoài đường, mặt đen cháy (tôi được cả nhà nói là cháu ruột chú Trụ đen), người nóng ran, khát nước đến cháy cổ. Tôi chạy về nhà kêu ầm ĩ: "Ôi, sốt quá, sốt quá, nước, nước!". Chú Trình lấy tay sờ lên đầu bốc "khói" của tôi kêu to: "Chà, cháu tôi sốt quá, mau mang thuốc cảm đến đây...". Miệng nói, tay chú bế tôi đặt lên giường đơn, lấy chăn bông đắp lên người tôi. Còn tôi vừa lấy chân đạp chăn, miệng vừa kêu sốt, hai chú cháu vật lộn trên giường, chú Thược lúng túng bưng nước và thuốc cảm tới. Vừa hay lúc đó mẹ tôi từ ngoài cổng đi vào nhà, chú Trình nói: "Chị ơi, cháu sốt cao quá chị ạ...". "Để tôi xem nào...". Mẹ tôi sờ trán tôi và cười: "Nó có sốt gì đâu, chắc là nô ngoài đường nóng quá đấy mà... À, tiếng Nghệ "sốt" có nghĩa là "nóng" chứ không phải là sốt cảm gì đâu...". Chú Trình cười hiền lành "Thế à!". Các chú khác đang mải đánh cờ, thấy thế phá lên cười và nói: "Người cùng một nước mà không hiểu nhau...". Mẹ tôi tung chăn cho tôi nhảy xuống sàn ngồi cạnh quạt và cho uống một cốc nước sôi để nguội. Nhà không có tủ lạnh, vì thời ấy tủ lạnh đắt tiền lắm.
Kể cũng lạ, ở tuổi đó sao tôi có thể chơi cả ngày ngoài nắng không biết mệt. Hàng ngày, sau bữa cơm trưa, mẹ bắt tôi nằm cạnh bà để ngủ trưa, nhưng tôi chẳng bao giờ ngủ trưa được.Tôi nằm im chờ khi nào mẹ tôi thiếp đi, bèn nhẹ nhàng lẻn xuống cầu thang chuồn ra ngoài đường. Nhưng nếu không ra ngoài đường chơi, ở nhà chả biết làm gì, chẳng có ai trò chuyện với đứa trẻ bốn tuổi. Chỉ vì tôi ham chơi, mẹ hay đánh tôi.Khi tôi thanh minh lý do gì đó, bà "bốp" một cái vả vào mồm: "Cãi trả này, cãi trả này!", lại bốp một cái nữa. Vậy mà tôi vẫn chứng nào tật ấy.
Hôm đó, sau khi hai chú cháu hiểu nhau về ngôn ngữ, chú Trình nói: "Thôi từ nay cháu đừng đi chơi ngoài nắng nữa, ăn cơm xong, trưa nằm dưới sàn với các chú cho mát, chú kể chuyện cho nghe". Từ hôm đó, trưa nào tôi cũng ở nhà, nằm cạnh chú Trình, chú thủ thỉ kể chuyện cổ tích. Những lúc vui, chú cười tít mắt, trông rất hiền, tôi rất mến chú. Dần dần tính tôi hình như thuần lại, không hay ra nô đùa ngoài đường với lũ bạn nữa.
Một hôm chú Trình hỏi: "Cháu biết mình là người đâu không?", "Người đâu? Mình là Hoa kiều ở Indonesia". Các chú cười ồ, chú Trình cười tít mắt, xoa đầu tôi và bảo: "Mình là người An Nam, đó là tên gọi nước ta của người Trung Quốc. Chính ra, phải gọi mình là người Việt Nam cháu ạ!". "Người Việt Nam? Mình không phải người Trung Quốc à? Thế Việt Nam ở đâu?". Chú lấy một bản đồ thế giới trải rộng ra sàn và chỉ: "Trung Quốc to như lá dâu đây này (Thời bấy giờ Trung Quốc in bản đồ gồm cả nước Mông Cổ ngày nay), còn nước mình bé tí tẹo hình chữ "ét"gầy nhom". Tôi tròn mắt nhìn lên bản đồ vừa sửng sốt, vừa thất vọng vì không ngờ nước Trung Quốc to như lá dâu, đẹp ơi là đẹp, còn nước mình trông sao bé nhỏ, gầy còm thế.
Trông vẻ mặt sững sờ, như đoán được ý nghĩ tôi, chú Trình nói: "Ấy thế cháu ạ, nước mình tuy bé tẹo so với Trung Quốc nhưng nổi tiếng là bé hạt tiêu!". "Bé hạt tiêu? Nghĩa là thế nào hả chú?". "Hạt tiêu tuy bé nhưng rất cay!". Tôi nghi hoặc nhìn chú vì tuổi ấy không thể nhận thức được vấn đề chính trị, ý nghĩa sâu xa của câu nói. Chú Trình lại cười xoa đầu tôi tỏ vẻ thông cảm với nỗi băn khoăn của tôi:
"- Lớn lên rồi cháu sẽ hiểu!.
- Thế nhà mình ở Trung Quốc làm gì, sao không về nước?". Tôi hỏi.
- Làm cách mạng, cháu ạ.
- Cách mạng là gì ạ?”
Mọi người cười phá lên.
“Chết chưa! Câu hỏi hóc búa quá!", một chú nghe đối thoại của hai chú cháu bèn trêu chú Trình.
Chú Trình gãi gãi đầu cười rồi nói: "Là đánh Tây!".
Các chú phá lên cười, tôi vẫn không hiểu tại sao các chú cười, hỏi tiếp: "Tây là ai cơ?",
"Tây ư. Tây là, là thằng Pháp, thằng mắt xanh mũi lõ, chúng nó cướp nước mình, bắt mình làm nô lệ..."
"Thế nô lệ là gì hả chú?" …
Cuối cùng một chú hát: "Thằng Tây nó đi giầy Tàu, trên đầu đội mũ trắng, hai tay cầm cần câu...". Sau đó là cả một câu chuyện vui rông dài và thủ thỉ.
Cuối cùng một đứa bé bốn tuổi như tôi mới rõ nguồn cơn, gốc gác của mình, vừa hay mẹ tôi đi vào. Bà nói: "Những việc trong nhà mình con tuyệt đối không được kể với ai. Ai có hỏi con vẫn cứ nói mình là người Quảng Đông, Hoa kiều ở Indonesia về nước..., chớ cho ai biết mình là người Việt Nam nhé!".
"Tại sao?"
"Vì nếu thằng Tây biết nó sẽ bắt các chú và cả thầy mẹ...".
Từ đó, tôi có ý thức cảnh giác, tuyệt nhiên không bép xép việc nhà với bạn bè của tôi. Vả lại cách ăn mặc của cả nhà cũng giống hệt người Trung Quốc, cho nên láng giềng không ai tò mò chuyện gia đình chúng tôi cả. Thực ra, chỉ có cơ quan Bộ Tổng tham mưu và Tưởng Giới Thạch biết gia đình Hồ Học Lãm là người Việt Nam.
Một hôm mẹ tôi nói với chú Trình: "Chú dạy con bé học chữ quốc ngữ đi". Thế là chú Trình bày giấy bút lên sàn nhà, hai chú cháu nằm bò trên sàn, chú vừa viết vừa nói: "Đây là chữ O, O giống quả trứng gà phải không nào?". Tôi nhìn thấy chữ chú viết khéo quá, đúng là giống quả trứng gà. "Ô thời đội mũ, Ơ thời có râu". Tôi ngạc nhiên lắm và lấy làm thú vị vì chữ quốc ngữ không phải các nét sổ ngang sổ dọc hình vuông như chữ Trung Quốc. Tôi thích quá đòi cầm bút viết. Ôi, chữ O tôi vẽ nét run run, tròn tròn như hòn bi méo, xấu ơi là xấu, không sao vẽ thành hình bầu dục. Vậy mà hai chú cháu lúi húi mấy buổi trưa, tôi đọc được bảng chữ cái tiếng Việt, nhưng không sao viết được chữ. Cuối cùng chú Trình nói với mẹ tôi: "Cháu bé quá, thôi đừng bắt tội nó. Chữ quốc ngữ dễ học mà. Lớn lên cháu học cũng không muộn". Đành rằng tôi cũng còn bé quá, nhưng quan trọng là chú không có phương pháp sư phạm, nằm bò dưới sàn cũng khó tập viết. Thế là việc quốc ngữ đành gác lại cho tới 12 năm sau. Năm đó là hè 1934, tôi mới tròn bốn tuổi.
Mới hôm qua, mẹ nói chị vừa thi tốt nghiệp trung học, đỗ thứ nhì trong lớp. Bà vẫn nói chị tôi thông minh học giỏi. Sáu tuổi đã đi học, hai năm nhảy cóc ba lớp, nghĩa là hè năm 1935, chị mới mười lăm tuổi đã đỗ cao trung (tương đương lớp 12 ngày nay, thông thường mười tám tuổi mới tốt nghiệp cao trung. Chế độ học là 12 năm từ tiểu học lên cao trung) và bà chê tôi không thông minh. Còn quá bé, tôi chẳng hiểu thế nào là thông minh, nhưng nghe mẹ nói vậy và tin bà nói đúng. Cho nên tôi càng hết sức sùng bái chị tôi. Mẹ tôi vẫn nói khi tôi còn bé, chị Diệc Lan hay bế và dắt tôi đi chơi cùng bạn bè mình. Nhưng từ ngày tôi bắt đầu có trí nhớ, đó là xuân hè năm 1933 ở Pháng Ngọa Cảng, tôi chẳng thấy chị tôi chơi với tôi gì cả. Chị cũng giống cha tôi, ngày hai buổi, sáng đi vào trường, trưa về ăn cơm rồi nghỉ một tý xong lại vào trường, chiều tối về, ăn cơm xong lại ngồi vào bàn học (cha thì làm việc). Hai người làm việc đến khuya, trăm ngày như một. Vậy mà tình chị em vẫn đâm chồi nảy lộc... Chị tôi sinh 1920, hơn hẳn tôi mười tuổi. Trong ảnh chụp ở Pháng Ngọa Cảng, tôi tròn ba tuổi, chị tôi tròn mười ba tuổi.
Thông minh lại chăm học, chị tôi thường đứng nhất nhì trong lớp, cùng một bạn trai là Trương Nộ Quân. Mãi sau chị mới cho tôi biết, năm 16, 17 tuổi, hai người yêu nhau. Khi cha mẹ tôi biết, hai ông bà giấu nhiều thư của anh Nộ Quân, khiến hai người mất liên lạc với nhau. Sau khi tốt nghiệp cao trung (tương đương lớp 12 ngày nay), anh ấy về quê Hồ Nam. Chị tôi vào làm việc tại trường nuôi tơ tằm. Cha tôi ép chị phải lấy anh Lê Tân Dân (tức Lê Quốc Vọng, Lê Thiết Hùng) mặc dù anh hơn chị tôi tới hơn mười tuổi.
Chị tôi chê anh Hùng là người không có tài năng, chỉ là người tốt, trung thành với cách mạng. Cha tôi dọa: "Nếu con không lấy anh ấy, cha sẽ từ con". Do tư tưởng còn phong kiến, do ý thức dân tộc, chị tôi lấy anh Lê Tân Dân vào mùa hè năm 1937 ở Vu Hồ. Sau khi tốt nghiệp, chị tôi vào trường nuôi tằm vừa học vừa làm công nhân chứ không học đại học. Sau này chị kể, các chú cộng sản ở trong nhà tôi cho rằng học lực như chị tôi là quá đủ, điều cần thiết ở chị là rèn luyện "công nông hóa", lối sống ăn học như chị tôi quá nặng "tính chất tiểu tư sản". Trước khi vào trường, cha mẹ tôi cho chị một món tiền thưởng để khích lệ sự phấn đấu của chị tôi. Mấy hôm đó chị rất vui, bận rộn, mỗi lần từ ngoài phố về, chị mang hàng chồng sách, giấy, vở, bút và mực, v.v... để chuẩn bị cho việc đi xa.
Hàng trước từ phải sang: Hồ Học Lãm, hồ Mộ La, Ngô Khôn Duy. Hàng sau từ phải sang: Bùi Hải Thiệu, Diệc Lan, Lê Tân Dân (Lê Thiết Hùng)
Ảnh chụp năm 1933 tại Pháng Ngọa Cảng
Rồi một hôm chị về và nói với tôi với đôi mắt to, sáng, ánh lên sự hóm hỉnh: "Bác ơi, hôm nay là ngày sinh nhật của tôi. Tôi sửa soạn bữa sinh nhật, lát nữa mời bác sang dùng bữa với tôi nhé!". Tôi vừa ngạc nhiên, vừa sung sướng, háo hức, định chạy ngay sang phòng chị, nhưng chị ngăn lại: "Khoan, bác hãy ở nhà bác chờ, tôi sẽ đến mời bác sau. Bây giờ tôi về nhà chuẩn bị cái đã nhé!" Nói xong chị về phòng chị và đóng cửa lại. Tôi đứng tựa cửa phòng mẹ nóng lòng chờ đợi. Eo ơi, sao mà đợi lâu thế. Chờ mãi không thấy cửa phòng chị mở, tôi đứng mãi mỏi cả chân đành ngồi bệt xuống sàn. Khi đang suy nghĩ vẩn vơ, cửa phòng chị mở toang, chị tươi cười cúi rạp người xuống: "Xin mời bác!". Tôi sung sướng ba chân bốn cẳng chạy sang phòng chị. Chị lấy giấy báo trải làm mâm trên giường, cắt giấy thành hoa văn hình tròn làm đĩa, trên đó có những cái bánh ga tô không kem to bằng lòng bàn tay và rất nhiều loại kẹo, hai chai nước chanh ga. Chị cắm mấy que diêm quanh một cái bánh ga tô và nói: "Giả vờ đây là nến nhé". Nhưng khi chị châm lửa vào, chỉ "xoẹt" một cái, diêm tắt ngấm, chẳng giống bánh ga tô kem to đẹp với những ngọn nến sáng như cảnh trong phim ảnh. Tôi vừa cảm động, vừa buồn buồn, vì thương chị chả có được một bánh ga tô kem thực sự (thực ra, hôm đó có lẽ cũng không phải là sinh nhật chị, chị cố tình bày ra để em gái mình vui trước khi chị đi xa nhà, xa đứa em nhỏ hơn mình mười tuổi). Hôm đó, hai chị em lấy nước chanh làm rượu, cùng chén tạc chén thù, ăn hết bánh ga tô và kẹo...
Thật ra chị tôi vẫn rất trẻ con, vì chị mới mười lăm tuổi, chỉ hơn thời chụp ảnh ở Pháng Ngọa Cảng có hai tuổi. Đó là một kỷ niệm đẹp, nhưng để lại trong tôi một dư âm thật "xót xa”, không hiểu vì sao. Còn nhiều kỷ niệm nữa, không sao quên được. Chị và tôi đi chơi công viên và chị chụp ảnh cho tôi. Có lần một chú chụp cho hai chị em tôi một kiểu ảnh ngồi trên bãi cỏ, tôi nằm ngả người trong lòng chị...
Ít hôm sau, chị biến mất. Hỏi mẹ, bà bảo chị đi làm công nhân rồi. Có lần, mẹ và tôi đến tận trường thăm chị. Chị giới thiệu các công đoạn nuôi tằm và xe tơ. Ở đó có những con tằm nhả tơ vàng và có tằm nhả tơ màu xanh nhạt, mầu hồng, mầu vàng và trắng, trông đẹp mắt lắm.
Một ngày trước tết âm lịch, có tiếng chuông cửa, mẹ ra mở cửa, tôi lon ton theo sau. Khi cửa mở toang, hóa ra chị tôi về, nhưng thương chị quá, hai chân chị sưng vù không đi được, mẹ cùng anh kéo xe xốc nách hai bên, đỡ chị đi từng bước. Nghe tiếng mẹ tôi gọi với, chú Trụ đen chạy ra, cõng chị tôi lên gác và đặt ngồi trên giường trong phòng chị. Tôi băn khoăn nhìn chị, mẹ cởi giầy vải (thời ấy ở Trung Quốc thường đi giầy vải, sang thì đi giầy da) và bỏ tất ra, tôi thấy từng ngón chân chị sưng tấy, da nứt nẻ và chảy máu. Mùa đông ở vùng Nam Kinh lạnh lắm, có tuyết dày. Tôi còn nhớ, có nhiều hôm rét cóng, trong nhà không có lò sưởi, tay tôi cóng đến mức không cầm được đũa để và cơm. Gót chân và ngón chân lạnh buốt đến mức máu như bị đông lại và đau đau, mà "đông" thật, vì đau buốt... Đến mùa trời ấm, máu tụ ở chân tan ra, gót chân và ngón chân ngứa rất khó chịu. Đấy, gia đình tôi ở trong nhà gạch xây kiên cố và ấm áp còn bị lạnh cóng như vậy. Huống hồ nhà ở của trường nuôi tằm là nhà cấp bốn, ăn uống kham khổ, thiếu thốn mọi bề. Ví dụ ở nhà, mẹ tôi hay nấu nước nóng ngâm chân cho tôi, do đó "cước" sưng nhẹ thôi. Còn ở trường, chị tôi làm gì có điều kiện như vậy, cho nên chị bị lên cước trầm trọng. Ngay cả hai bàn tay chị cũng đỏ mọng lên vì cước, chị không cầm được đũa. Hàng ngày mẹ cho chị tôi ngâm chân trong nước nóng pha muối, những chỗ nứt da chảy máu được rửa sạch rồi bôi thuốc mỡ. Ngày ba bữa mẹ tôi và các chú bưng thức ăn lên phòng, vì chị tôi không đi lại được. Mười ngày sau, chị tôi bình phục, đỏ da thắm thịt chứ không tiều tụy như hôm mới về. Chị xin trường cho nghỉ phép một tháng để chữa bệnh, năm đó chị ăn Tết ở nhà.
Những ngày chị nghỉ phép về nhà, nhiều đêm ba mẹ con nằm chung và bao giờ chị tôi cũng nằm ở giữa để kể chuyện cuộc sống ở trường. Sáng nào cũng chỉ có ba bát cháo hoa với dưa muối mặn. Ngày chỉ có hai bữa cơm rau dưa, cuối tuần mới có chút thịt lợn mỡ, mọi người tranh nhau ăn. "Con ăn mỗi bữa ba bát cơm đầy, nếu ăn chậm sẽ hết cơm. Hàng ngày nắng cũng như mưa mọi người thay phiên nhau đi hái dâu, đi giữa bụi cỏ rất nguy hiểm, đang đi bất thần rắn độc bò qua. Vùng đó có nhiều loại rắn màu trắng, màu xanh, đỏ, đen, hoa văn; có con mình dẹt dẹt trông rất lạ mắt. Đêm hè cũng như mùa đông, phải thay nhau trực cho tằm ăn. Mùa rét người không có lò sưởi không sao, nhưng tằm nhất thiết phải có lò sưởi giữ độ ấm. Hè phải mở toang cửa cho thoáng, thậm chí nóng quá phải có quạt. Để tránh ruồi muỗi chích vào tằm, phòng nuôi tằm phải có màn trắng trùm kín, v.v... Mùa đông không đủ chăn ấm, chúng con cứ hai người ngủ chung... Một buổi tối, vừa ăn xong thì nhận được thư thầy mẹ. Con chạy vào phòng khách bật đèn lên đọc thư. Con đứng tựa lưng vào một bàn làm việc kê cạnh cửa sổ kính đóng chặt vì ngoài trời gió rét lắm. Đang đọc thư chăm chú bỗng thấy sống lưng lạnh, vô tình ngoảnh đầu nhìn ra phía sau. Con thấy ngoài cửa kính có một người đàn bà tóc xõa, mặc áo trắng, đang dang hai cánh tay hù dọa, con sợ hết hồn và lạnh cứng người. Vừa lúc đó, các bạn con vừa nói chuyện oang oang vừa từ hành lang đi tới. Khi đó bóng ma biến mất...".
Tôi thấy thương chị vô cùng. Trong lòng trẻ thơ, tôi không khỏi thầm oán trách thầy mẹ và nghĩ: nếu được ở nhà học đại học, chị tôi đâu đến nỗi khổ sở như vậy? Mọi người trong nhà ai cũng được no ấm sung sướng, riêng chị bị đầy đọa nơi gian khổ? Về sau mẹ cho biết, bà rất muốn cho chị học đại học, vả lại đó cũng là nguyện vọng và ước mơ của chị. Nhưng học phí đại học rất cao, trong nhà nuôi các đồng chí cách mạng... Như vậy, việc cho chị đi học có khó khăn về kinh tế.
"Thế mà con cứ tưởng thầy mẹ giầu lắm, cho nên nuôi nhiều người như vậy".
Mẹ tôi cười: "Chỉ có mỗi tiền lương của thầy thôi, làm sao mà giầu được?".
Có lần, tôi thắc mắc: "Sao các chú không đi làm việc kiếm tiền đi? Sao các chú ở nhà mình đông và ở lâu thế?".
Bà cười: "Con còn nhỏ dại, chưa hiểu gì con ạ. Cấm con không được nói lung tung như vừa rồi với các chú nhé, kẻo các chú buồn... hiểu lầm thầy mẹ. Đi làm phải có trình độ nghề nghiệp. Trong các chú, chỉ có mỗi chú Lý Quang Hoa được thầy con xin được việc đi làm thôi, bởi vì chú rành chữ Hán hơn, viết chữ Nho rất đẹp. Chú ấy chỉ làm mỗi việc là sao chép công văn, báo cáo thôi. Chú chưa được học trường quân sự, cho nên lương tháng của chú có được mỗi 30 đồng thôi...".
"Thế chú có đưa tiền ăn cho mẹ không?"
"Có chứ, chú hiểu thầy mẹ có khó khăn, cho nên mỗi tháng đưa mẹ 20 đồng, 10 đồng để chi tiêu các thứ lặt vặt. Chú Trụ đen làm nghề cắt tóc, mỗi tháng đưa mẹ năm, ba đồng".
Tò mò, tôi hỏi mẹ, cha tôi hàng tháng đưa bà bao nhiêu tiền. Bà trả lời:
"Hàng tháng thầy con đưa 220 đồng, chỉ giữ 20 đồng để ăn sáng, ngày bốn lần ngồi xe kéo từ nhà đến cơ quan và về nhà, còn ít tiền thầy con hút thuốc lá...".
Bà lại nói tiếp: "Thật ra thầy con sống rất tằn tiện. Khi nào có những việc "thù tạc" (mời bạn bè đi ăn uống hay chơi mà chược) mẹ phải đưa thêm vài ba chục. Nhưng có khi những bài thầy viết được đăng, hay làm công việc gì ở cơ quan có tiền thưởng, thầy lại đưa mẹ vì biết nhà mình cần tiền nuôi các chú mà...".
"Số tiền đó khoảng bao nhiêu hả mẹ".
"Cũng không chừng, khi thì dăm ba chục, khi thì vài trăm. Những khi đó, mẹ vẫn giữ lại ít tiền cho thầy con tiêu thêm khi cần thiết".
Mẹ giải thích thêm: "Các chú cũng chẳng muốn ăn bám nhà mình đâu, con ạ, vì cứu nước, các chú phải sang Trung Quốc...".
Thật ra các lý lẽ chính trị tôi không hiểu gì, do lối sống và những câu chuyện bàn về thời cuộc trong bữa ăn cơm tối (bữa trưa cha tôi vẫn giữ nếp ăn vội vài bát rồi lên nhà nghỉ để chiều đi làm) dần dần một cái gì đó hình thành ở trong tôi, tuy mọi thứ đó còn lờ mờ, nhưng nó khiến tôi nhạy cảm hơn và có ý thức giữ kín lối sống trong gia đình và vô hình trung để ý các câu chuyện mang tính chất chính trị (khi đó tôi khoảng năm tuổi rưỡi, sáu tuổi gì đó, nghĩa là từ đầu 1936 trở đi).
Trong nhà đông miệng ăn, mình mẹ tôi không làm xuể, một số chú như Đức, Giai, Lộc, Thược, Văn giúp mẹ tôi làm cơm, dọn bàn, bổ củi, rửa bát v.v... các việc vặt trong gia đình.
Bỗng có những hôm, trong nhà xuất hiện nhiều người, trong đó có một chú rất hiền hòa, hay xoa đầu và hỏi han tôi, đó là chú Liễu (sau này là Phùng Chí Kiên). Có chú cao to, giọng nói ồm ồm, tiếng cười sảng khoái, đó là chú Trịnh Đông Hải (Vũ Anh v.v... Những hôm đó cha tôi cùng các chú họp hành bàn điều gì đó ở phòng trong của tầng một. Nét mặt mọi người trang nghiêm, nói năng nhỏ nhẹ, kẻ ra người vào. Mẹ tôi cùng các chú Thược, Đức, Giai, Lộc và Văn lo lau dọn, chợ búa và cơm nước.
Trong số những người đến nhà tôi, có một nhân vật rất ngộ nghĩnh, mẹ tôi bảo: "Con chào bác Nguyễn Hải Thần đi con!". Nghĩa là ông ấy với cha tôi xấp xỉ tuổi nhau (sau này tôi mới biết ông là người cùng xuất dương Đông du như cha tôi). Ông có bộ râu dê hoa râm, thưa thớt, đôi mắt đỏ ngầu đầy dử và luôn nhấp nháy, thỉnh thoảng rút chiếc khăn mùi xoa cáu bẩn lau dử mắt. Tôi không khỏi kêu thầm trong bụng: "Eo ơi, bác ấy lôi thôi và bẩn thỉu quá!". Ngộ nhất khi ông nói tiếng Việt với mọi người hay pha lẫn tiếng Quảng Đông, ví dụ khi tỏ thái độ tán thành ý kiến người ta, ông nói: "Hầy lớ, hầy lơ (phải rồi, phải rồi) tồng pào nhất tịnh tán thành lớ (đồng bào nhất định tán thành lớ!". Mục kỉnh của ông một bên có quai, một bên buộc dây đeo vào tai. Hai mắt kính tụt xuống đầu mũi khi đọc báo, mỗi lần nhìn mặt mọi người, đầu cúi gằm, ngước cặp mắt đỏ đục lên nhìn qua đôi kính. Bộ áo ông mặc cũ kỹ tàn tạ, trùm lên tấm thân hom hem, trông cứ thấy tồi tội làm sao ấy.
Sau này mẹ tôi kể, sau khi Đông du thất bại, Nguyễn Hải Thần về ở Quảng Châu. Vì không có một trình độ nghề nghiệp gì, ông phải ngồi đầu đường xó chợ xem bói cho người qua lại, kiếm sống, song cuộc sống vẫn hết sức chật vật. Ông lấy một bà vợ người Quảng Đông đẻ một lũ con, cho nên gia đình càng túng bấn hơn. "Thầy con viết thư mời ông về Nam Kinh thành lập mặt trận, ông nhiệt tình hưởng ứng ngay".
Khi rỗi rãi, mẹ tôi mang giấy bút ra nhờ Nguyễn Hải Thần viết gì đó. Ông gấp tờ giấy làm nhiều ô vuông, rồi trải phẳng trên bàn. Tay phải cầm bút lông, tay trái bấm từng đốt ngón tay tính tính toán toán, nói lẩm bẩm rồi viết quanh trong các ô vuông, đoạn lấy bút khuyên tròn một số chữ. Tôi tròn mắt nhìn vào tờ giấy đầy chữ. Mẹ hỏi gì đó, ông trả lời: "Hầy lớ, hầy lớ, sao này xấu lắm lớ... sao này thì tốt...". Về sau tôi mới biết ông lấy số tử vi, mẹ tôi nói: "Ông lấy số tử vi giỏi, nhưng luận đoán không giỏi". Nghe thế thì biết thế, tôi không thể hiểu được tử vi là gì, và mẹ lấy cho ai, để làm gì. Vì cha tôi ban ngày phải đi làm việc ở cơ quan, tối đến mới họp nhau bàn công việc. Vậy là ban ngày, mẹ tôi ngồi cạnh xem ông lấy số tử vi, tôi cảm thấy ông dáng vẻ hết sức ngộ nghĩnh, giống các ông thầy bói ngoài đường, ngoài chợ thật. Để tỏ lòng kính trọng, các chú gọi ông là cụ Nguyễn[1].
Một buổi sáng, cha tôi, ông Nguyễn Hải Thần và các chú kéo nhau đi mãi đến trưa mới về. Về đến nhà, các chú bàn tán vui vẻ sôi nổi. Các chú Đức, Giai, Lộc v.v... giúp mẹ tôi làm cơm. Bày các món ăn rất thịnh soạn lên một bàn tròn ở phòng ăn, một bàn vuông ở phòng trong (vì đông người quá phải bày hai bàn). Còn tôi ngồi riêng một góc. Ông Nguyễn Hải Thần ngồi cạnh cha tôi, với chú Liễu (Phùng Chí Kiên), chú Cao (Cao Hồng Lĩnh), Hoa (Lý Quang Hoa), Tân Dân (Lê Thiết Hùng) v.v... quanh bàn tròn. Buổi cơm trưa mọi người được ăn cua biển. Tôi lần đầu tiên và cũng là cuối cùng được ăn cua biển ở Trung Quốc. Khoảng bảy, tám giờ tối, mọi người vào ngồi ở phòng trong, các bàn bày la liệt kẹo bánh. Trẻ con thích kẹo bánh, cho nên tối hôm đó tôi được ăn thỏa thích. Chị tôi và một bạn gái biểu diễn hát múa, các chú vỗ tay hoan nghênh sôi nổi.
Tối hôm đó, cảm thấy "vui ơi là vui" tôi buột mồm đánh một câu: "Giá như hôm nào cũng khai hội (họp) như thế thì vui biết mấy". Bỗng mọi người phá lên cười to. Mặt tôi nóng ran, xị xuống và nghĩ thầm: "Mình nói đúng quá chứ lỵ, người lớn chúa hay cười trẻ con, thật là vô lý!...". Sau đó các chú nói chuyện râm ran, mắt tôi díp lại, mẹ bế tôi lên gác ngủ.
Sáng hôm sau tỉnh dậy thấy nhà vắng vẻ như cũ, chỉ mỗi ông Nguyễn Hải Thần ở lại nhà một thời gian khoảng vài ba tuần rồi trở về Quảng Đông. Đó là khoảng cuối năm 1935, đầu năm 1936.
Mãi về sau tôi mới biết đó là đầu năm 1936, ngày thành lập "Việt Nam độc lập vận động đồng minh hội", theo thói quen gọi tắt của Trung Quốc gọi là "Việt Minh", nghĩa đen là Hội đồng minh của phong trào độc lập Việt Nam. Mẹ tôi kể:
"Vì cha con thấy các chú ở nhà đông như vậy mà không có danh nghĩa gì dễ gây nghi ngờ là cộng sản, chú Lê Tân Dân (tức chú Quốc Vọng) rất ủng hộ, vì chú thấy bọn Quốc dân đảng Việt Nam hoạt động có sừng có mỏ, lại được bọn Quốc dân đảng Trung Quốc hiệp trợ, chú ngại ảnh hưởng của chúng. Chú trao đổi với chú Mạnh Văn Liễu (Phùng Chí Kiên, đại diện của Đảng) và được chú Liễu ủng hộ. Thầy con viết đơn đề nghị với chính phủ Quốc dân đảng Trung Quốc cho phép thành lập hội, mặt khác gọi điện trình bày nguyện vọng thành lập hội với Tưởng Giới Thạch. Tưởng tin thầy con không phải là cộng sản, xét về lâu dài ông ta có thể lợi dụng thầy con với danh nghĩa giúp Việt Nam đánh Pháp, do đó ông ta đồng ý ngay, ra lệnh cấp dưới ký và đóng dấu chuẩn y cho thầy con thành lập hội. Và thầy con cùng chú Lý Quang Hoa, chú Hải (Phi Vân), soạn thảo ra tuyên ngôn, điều lệ hội... đăng trên tờ báo ra hàng tháng, lấy tên là "Việt Thanh". Tất cả mọi chi phí đều do thầy mẹ chi. Lúc đầu hy vọng phía chính phủ Quốc dân đảng Trung Quốc sẽ giúp đỡ kinh phí hoạt động. Nhưng bọn Vi Đăng Tường[2]dèm pha với chính phủ Trung Quốc, cho nên tờ báo ra được hai kỳ tháng 1 và tháng 2 năm 1936 thì đành phải đình bản...".
"Ai đọc những báo đó?"
"Các chú gửi đi cho Việt kiều ở Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, cả ở Pháp nữa. Việt kiều gửi tiền ủng hộ hội, nhưng Việt kiều ở Trung Quốc cũng nghèo, số tiền chẳng đáng kể, nhưng đường lối chủ trương của Hội được Việt kiều ủng hộ, con ạ".
"Cuối cùng hội như thế nào? Hoạt động được những gì?"
Mẹ tôi cười, trả lời:
"Cơ quan ngôn luận "Việt Thanh" phải đình bản, do đó hội không hoạt động được. Thầy con và anh Tân Dân bàn với nhau cứ để thế, không tuyên bố giải tán, để các chú ở trong nhà mình có danh nghĩa hội viên "Việt Minh"
"Thế ông Nguyễn Hải Thần không làm gì cho hội ư?"
Mẹ khẽ cười nói: "Lúc đầu ông phấn khởi lắm, ông nói với thầy con nếu hội hoạt động tốt, ông sẽ bỏ nghề thầy bói, ở lại Nam Kinh làm việc cho hội. Ông cũng chạy đôn đáo nhiều nơi xin kinh phí, nhưng không có hiệu quả gì, do đó ông ở nhà mình gần một tháng, cuối cùng phải bỏ về Quảng Đông với vợ con... Ông cũng sang Nhật cùng thầy con thời Đông Du. Sau khi có lệnh trục xuất lưu học sinh, một số người nản chí bỏ về nước, một số người vào học trường sĩ quan lục quân Bảo Định như thầy con. Nguyễn Hải Thần không học hành gì cả, bỏ về kiếm sống ở Quảng Đông. Lớp người học trường sĩ quan ra cũng mỗi người một số phận. Có người sau khi tốt nghiệp tìm đường về nước rồi bị giết hại, người thì ốm chết, v.v... Thực ra, việc thành lập hội Việt Minh cũng rất phức tạp. Lúc đầu các chú không đồng ý mời Nguyễn Hải Thần và Vi Đăng Tường (Quốc dân đảng Việt Nam) tham gia Việt Minh. Thầy con phân tích và thuyết phục mãi, rằng: "Tên hội thể hiện tinh thần liên minh các đảng phái trong phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc. Nếu mình không mời họ vào, sẽ gây sự nghi ngờ đối với chính phủ Trung Quốc. Hơn nữa chúng ta nên có tư tưởng đoàn kết rộng rãi và tranh thủ hết sức mọi tầng lớp, các đảng phái, không thì cách mạng khó thành công...". "Các chú nói sao hở mẹ?", "Các chú đành chấp nhận ý kiến thầy, nhưng thâm tâm không phục. Các chú cho rằng thầy con chính trị non, thiếu quan điểm lập trường...".
"Thầy con nghĩ sao?"
"Tất nhiên đó là những ý kiến nói sau lưng... Mẹ kể lại, thầy con cười bảo: "Tính khí thanh niên bao giờ cũng sôi nổi, hăng hái (ông dùng chữ "cương cường") và thẳng thắn. Nhưng họ là những thanh niên tốt, thật lòng vì sự nghiệp cứu nước. Cách mạng phải dựa vào lực lượng này. Bà chớ có tự ái vặt, đừng chấp nhặt những câu nói của thanh niên... nhưng bà hay nóng tính, phải sửa tính đi. Vợ chồng mình xuất dương để tìm đường cứu nước, vậy mà chưa làm được gì thì đã già rồi. Nay anh em ở trong nhà, bà đừng nói linh tinh để anh em hiểu lầm. Bà phải coi nuôi các anh em là một nghĩa vụ của mình, bà ạ. Người thì chờ dịp đi học Liên Xô, người thì chờ dịp về nước hoạt động. Họ cũng sốt ruột và khổ tâm lắm đấy. Nếu gặp thời cơ, họ sẽ đi hết, bà có mời, họ cũng không ở lại nhà mình đâu...".
Nhưng tôi lờ mờ cảm thấy các chú chỉ quý cha tôi thôi.
*
* *
Về sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh với tiến trình thành lập "Việt Nam độc lập vận động đồng minh hội" (gọi tắt là Việt Minh) năm 1936 tại Nam Kinh, xin trích dẫn hồi ký "Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ" của Thiếu tướng Lê Thiết Hùng (Đăng trên Tạp chí Lịch sử Quân sự số 10-1986).
"...Cũng trong thời gian này, tôi được đồng chí Mạnh Văn Liễu (Phùng Chí Kiên) thay mặt Ban lãnh đạo hải ngoại gặp tôi giao cho một nhiệm vụ đột xuất là theo dõi Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ... đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng cũ vừa từ Côn Minh (thủ phủ Vân Nam) lên Nam Kinh, xem họ có âm mưu gì thì phải kịp thời đấu tranh ngăn chặn. Anh nói, giọng không vui: - Người mình với người mình, trên đất nước người. Cố gắng lôi kéo, phân hóa, cảm hóa họ, chí ít cũng vô hiệu hóa. Anh dặn tiếp: Việc này rất cần đến sự đồng tình nhất trí ủng hộ của ông Hồ Học Lãm...
Vừa lúc ông Hồ Học Lãm đưa cho tôi một lá thư của một người Việt Nam đến Nam Kinh bị bọn đặc vụ Tưởng Giới Thạch bắt giữ, nhờ ông Hồ Học Lãm bảo lãnh. Xem thư thì hóa ra đồng chí Đông A, người của tổ chức ta phái đến cộng tác với tôi. Ngoài đồng chí Đông A, tổ chức còn phái thêm một vài đồng chí khác nữa.
Qua tìm hiểu, tôi càng rõ Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ... là một bọn đầu cơ chính trị, giả danh cách mạng. Chúng đã phản lại đường lối của Việt Nam Quốc dân đảng hồi còn các lãnh tụ Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Nguyễn Khắc Nhu... hệt như Tưởng Giới Thạch đã phản lại đường lối Tam dân chủ nghĩa của Tôn Trung Sơn.
Sau cuộc bạo động của Việt Nam Quốc dân đảng tháng 2 năm 1930 bị thất bại, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ và đồng bọn chạy trốn sang Côn Minh, làm những việc xằng bậy. Gần đây, chúng bị tướng Long Vân, tỉnh trưởng Vân Nam trục xuất, bèn chạy lên Nam Kinh, định lôi kéo Nguyễn Hải Thần, Trương Bội Công... khôi phục lại Việt Nam Quốc dân đảng, theo đường lối Tam dân chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên. Và tất nhiên để cầu xin sự giúp đỡ của chính quyền Tưởng Giới Thạch. Trong đội ngũ Quốc dân đảng Trung Hoa lúc đó, không thiếu gì kẻ đang ôm ấp một ý đồ thâm hiểm sau này đối với đất nước Việt Nam.”
Lê Thiết Hùng viết tiếp về quá trình thành lập Việt Minh như sau. Chủ trương của tổ chức Đảng đứng đầu là đồng chí Phùng Chí Kiên là đoàn kết các lực lượng cách mạng, tiến bộ của Việt Nam tại Trung Hoa chống đế quốc Pháp, quân phiệt Nhật, đồng thời ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc. Lấy đội ngũ đảng viên cộng sản Đông Dương làm nòng cốt, đã chủ trương vận động một số nhân sĩ Việt Nam, bà con Việt kiều, tranh thủ sự ủng hộ của một số nhân sĩ Trung Quốc để việc thành lập Mặt trận, với hạt nhân đoàn kết là ông Hồ Học Lãm. Đại hội thành lập Mặt trận có đông đủ đại biểu các tổ chức cách mạng Việt Nam ở Trung Quốc, đại diện của Trung ương Quốc dân đảng Trung Hoa, của đương cục Trung Quốc, ông Hồ Học Lãm được bầu làm Chủ tịch Mặt trận. Lê Thiết Hùng và Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ (hai tên này cũng buộc phải tham gia) và một vài đảng viên cộng sản bí mật được bầu làm Ủy viên Ban chấp hành. Về tài chính, đương cục Trung Quốc nhận mỗi tháng giúp vài trăm đồng. Mặt trận quyết định ra một tờ báo hàng tháng, lấy tên là Việt Thanh.
Ông Lê Thiết Hùng viết tiếp:
“Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng ta đánh giá cao việc này. Một công hai việc: vừa hợp pháp hóa được tổ chức cách mạng của ta với đương cục Trung Quốc và ngăn chặn được âm mưu phản cách mạng của bọn Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ...
Do báo chí công khai ở Nam Ninh có đăng tin về việc này nên ở Mạc Tư Khoa, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã nắm được.Và Quốc tế cộng sản cũng biết qua tin tức. Lúc đó là những năm 1935 - 1936. Trước nguy cơ chiến tranh thế giới của bọn đế quốc, Quốc tế cộng sản đã có chủ trương thành lập một mặt trận chống chiến tranh đế quốc, bảo vệ hòa bình rộng rãi ở khắp các nước. Việt Nam đã tổ chức được một Mặt trận. Phải chăng theo phương hướng nói trên? Đồng chí Nguyễn Ái Quốc sau khi đã được báo cáo đầy đủ liền chỉ thị cho Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng ta: Mặt trận là phải có cơ sở phong trào ở trong nước. Do đó Mặt trận không thể tồn tại và phát triển được ở ngoài nước.
Chấp hành chỉ thị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và của ban lãnh đạo hải ngoại, tôi về báo cáo lại với ông Hồ Học Lãm. Hai bác cháu đều nhất trí: Không tuyên bố giải tán nó, nhưng cũng không hoạt động gì thêm nữa, cứ để nó đấy, sau này lúc nào cần sẽ dựng nó dậy.”
Đầu những năm 1940, khi anh Lê Tân Dân từ Lão Hà Khẩu chuyển về Liễu Châu để tiện cho công tác với hội Việt Minh, cha tôi có viết thư về nhà cho mẹ con tôi biết. Theo hồi ký của anh Thiết Hùng, việc này là do Bác Hồ yêu cầu cha tôi sắp xếp khi hai người bí mật gặp nhau cuối năm 1939.
Trong Chương III và chương IV của Hồi ký Từ nhân dân mà ra, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có kể về những giao dịch của các anh Lâm Bá Kiệt, Dương Hoài Nam, Trịnh Đông Hải, Phùng Chí Kiên, Cao Hồng Lĩnh, Lý Quang Hoa … với chủ nhiệm tây nam hành dinh của Quốc dân đảng, tướng Lý Tế Thâm. Về việc này, cha tôi có nói rằng Lý Tế Thâm đã dặn đi dặn lại rằng “chớ có để Cộng sản Việt Nam ở Trung Hoa lợi dụng dịp này để về nước hoạt động”.
Dương Kế Vinh là trùm đặc vụ thân tín của Tưởng Giới Thạch được xếp đặt ở hành dinh của Lý Tế Thâm để ngầm giám sát Lý.
Theo các nhà cách mạng tiền bối kể lại, một hôm, Dương Kế Vinh đến thăm cha tôi ở bệnh viện. Ông ta nói với cha tôi rằng nhóm thanh niên trong Việt Minh chính là cộng sản. Cha tôi đáp: “Với cách mạng Việt Nam, các ông chưa giúp được gì, nhưng về phần riêng như cá nhân ông chẳng hạn, thì đã nhờ cách mạng Việt Nam mà phát tài hàng triệu. Ông muốn đám thanh niên trẻ của chúng tôi làm tình báo cho mình thì không được đâu, họ là những người cách mạng. Vì ông lôi kéo không được, nên vu cho họ là cộng sản chứ gì? Nếu ông nói họ là cộng sản thì ông hãy tìm cho được chứng cớ, tôi sẽ lấy cái đầu của tôi đảm bảo cho họ”. Sau đó, Dương Kế Vinh không gặp cha tôi nữa. Ông ta còn nói cha tôi cậy nhiều tuổi để nói át ông ta.
*
* *
Vai trò tác dụng của Mặt trận Việt Minh trong tiến trình vận động cách mạng những năm đầu thập kỷ 40 ở hải ngoại đã được các lão thành cách mạng như Vũ Anh, Lê Thiết Hùng, Cao Hồng Lãnh, Đặng Văn Cáp phản ảnh trong tuyển tập Hồi ký “Đầu nguồn”, NXB Văn Học, 1977.
Ông Vũ Anh (Trịnh Đông Hải) viết về vai trò của Việt
Nam độc lập đồng minh hộithời kỳ từ giữa năm 1940 như sau[3]:
“(Tháng sáu 1940) Bác Hồ lên đường đi gặp Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Trùng Khánh. Trước khi đi Bác dặn đi, dặn lại chúng tôi ở nhà phải chuẩn bị mọi mặt để Bác về có thể lên đường về nước ngay..
Bác đi được hơn một tuần thì ở nhà chúng tôi nhận được thư cụ Hồ Học Lãm. Lúc bấy giờ cụ đã già, về hưu. Vì chiến tranh nên cụ nghỉ dưỡng lão tại Quý Châu, thủ phủ Quý Dương. Cụ cho chúng tôi biết hiện nay bọn đệ tứ chiến khu định đưa Trương Bội Công (trước làm quan cho Tưởng đã về hưu) ra thành lập một tổ chức cách mạng (chưa rõ danh nghĩa gì) nhằm tập hợp số thanh niên Việt Nam ở Trung Quốc và những người Trung Quốc lâu năm ở Việt Nam chuẩn bị cho “Hoa quân nhập Việt”. Theo cụ Lãm, Trương Bội Công xưa nay không có tinh thần cách mạng, và cũng chưa tham gia một tổ chức cách mạng nào. Ông ta chỉ dựa vào thế lực của bọn Tưởng để mưu đồ cá nhân. Trương Bội Công có trình bày ý đồ của y cho cụ Lãm và tỏ ý muốn mời cụ tham gia nhằm lợi dụng danh nghĩa của cụ để lôi kéo thanh niên ta. Cụ Lãm bàn với chúng tôi nên nhanh chóng thu xếp lên gặp Trương Bội Công, nếu có thể thì gia nhập tổ chức này để kiếm đường về nước dễ dàng hơn. Cụ báo cho chúng tôi biết cụ cũng sẽ nhận lời Trương Bội Công mà tham gia tổ chức của y với mục đích phá cho được ý đồ đen tối của chúng, không để chúng làm bậy mang tiếng xấu cho cách mạng Việt Nam. Chúng tôi lại họp bộ Hải ngoại ở nhà anh Kiên (Phùng Chí Kiên) để thảo luận. Cả ba đều nhất trí là nên lợi dụng tổ chức của Trương Bội Công để tìm đường về nước. Nhưng sẽ đi làm nhiều đợt. Đợt đầu đi ba người, lên gặp Trương Bội Công trước, xem xét tình hình rồi tìm cách báo cáo lại cho ở nhà biết … Chúng tôi bàn luận vừa xong thì Bác về.
Mỗi lần có biến cố gì mới, có Bác là chúng tôi yên tâm. Sau khi nghe báo cáo lại toàn bộ tình hình, Bác đồng ý với chúng tôi và đề nghị đánh điện cho anh Đồng, anh Giáp và anh Lãnh đừng đi Diên An nữa mà ở lại Quý Châu, chờ chúng tôi lên bàn công tác.
Chúng tôi đi ô tô hai ngày đến Quý Dương. Anh Đồng, anh Giáp và anh Lãnh chờ chúng tôi ở đấy. Chúng tôi báo cáo lại ý kiến của Bác cho các anh nghe rồi rủ nhau về Liễu Châu. Khi chúng tôi đến chỗ Trương Bội Công thì đã thấy cụ Lãm ở đó. Chúng tôi ở lại dò xét Trương Bội Công một thời gian và phát hiện tên này chỉ là một gián điệp của Tưởng Giới Thạch. Chúng tôi vội gửi thư về báo cáo với Bác.
Ba hôm sau, Bác tới Liễu Châu. Tôi đón Bác ở khách sạn Liễu Châu. Bác hẹn ngày, hẹn địa điểm mời tất cả các anh đến gặp Bác.
Cuộc gặp mặt được tiến hành sau đó một hôm, tại rừng thông Liễu Châu. Tất cả đều thống nhất là phải sớm cắt đứt quan hệ với Trương Bội Công.
Bác đặt ra cho chúng tôi hai vấn đề thảo luận.
- Ta tách rời tổ chức của Trương Bội Công lên Quế
Lâm thì phải nhân danh một tổ chức gì cho hợp pháp với bọn Tưởng.
- Phải kiếm cách về nước, càng sớm càng tốt.
Hai vấn đề này đều khó như nhau, cùng phức tạp, cấp
bách như nhau. Nó như hai con toán rắc rối làm đầu óc chúng tôi căng thẳng.
Sau một hồi thảo luận sôi nổi, một tia sáng mới đã loé
lên trong đầu óc chúng tôi.
Anh Hoan báo cáo với Bác về Việt Nam độc lập đồng
minh hội. Hội này thành lập từ tháng Giêng năm 1936, do cụ Hồ Học Lãm đứng đầu. Thành viên chính lúc bấy giờ có anh Hoan, anh Lê Thiết Hùng … Về phía Quốc Dân Đảng có Nghiêm Kế Tổ và một số người khác nữa. Hội xuất bản tờ báo Việt Thanh, sinh hoạt tại Nam Kinh. Khi thành lập có báo cáo lên nhà đương cục Tưởng Giới Thạch. Giấy tờ vẫn còn nhưng Hội cứ tan dần. Anh Hoan đề nghị làm một tờ trình, cụ Lãm ký rồi mang lên Đệ tứ chiến khu.
Bác đồng ý và thêm:
- Ta có thể lợi dụng tổ chức này. Nhưng phải nói
như thế nào để chúng không bắt bẻ được ta. Tôi đề nghị chúng ta báo lên Điện Công sảnh là tháng Giêng năm 1936 ta có thành lập Việt Nam độc lập đồng minh hội. Hội này hoạt động một thời gian rồi về nước hoạt động. Bây giờ trong nước lại phái một số cán bộ ra để lập một bộ phận của Hội, gọi là Việt Nam độc lập đồng minh hội Hải ngoại biện sự xứ. Chúng ta cử cụ Lãm làm chủ nhiệm và đồng chí Lâm Bá Kiệt[4]làm phó chủ nhiệm.
Ngừng một lúc, Bác nói thêm:
- Làm như thế không những chúng ta hợp pháp
hoá được tổ chức của chúng ta ở đây, mà vấn đề quan trọng hơn là chúng ta còn có thể ở đây lâu dài, làm nhiều việc khác, giữ mối quan hệ giữa ta với Trung Quốc, nhất là với Đệ tứ chiến khu đề phòng việc “Hoa quân nhập Việt”. Làm thế nào để khi chúng “nhập Việt”, chúng ta đã ở ngay trong nước, và, với danh nghĩa Việt Nam độc lập đồng minh hội, chúng ta có thể đường hoàng buộc chúng phải nói chuyện với chúng ta.
Sau khi Việt Nam độc lập đồng minh hộiHải ngoại
biện sự xứđược thành lập, Bác đồng ý cho chúng tôi tổ chức một buổi nói chuyện để gây thanh thế với Đệ tứ chiến khu.
Buổi nói chuyện được tổ chức trong một trường học lớn ở Quế Lâm, có 4 cửa đi vào. Mỗi cửa kê một chiếc bàn lớn. Ai vào nghe thì ký vào tờ giấy ấy. Hôm ấy anh Đồng nói bằng tiếng Pháp, anh Giáp nói bằng tiếng Trung Quốc. Người đến nghe rất đông, nhưng rất trật tự, nề nếp …”
[1]Những năm 1912 – 1915, dưới sựlãnh đạo của Phan Bội Châu, Nguyễn Hải Thần có tham gia một sốhoạt động vũtrang đánh Pháp. Đây là những vụviệc manh động, dẫn đến thất bại. Tuy nhiên nhờđó mà Nguyễn Hải Thần vẫn gây được uy tín nhất định trong người Việt ởhải ngoại.
[2]Lúc đó là đại diện (phụtrách) Biện sựsứcủa Việt Nam quốc dân đảng ởNam Kinh.
[3]Hồi ký “Đầu nguồn”, NXB Văn Học, 1977, tr. 246 - 249
[4]Tức ông Phạm Văn Đồng.
(4)
Chương IV
Mẹ tôi hay kể chuyện về Thái Lai (Hà Huy Tập), Lê Hồng Phong, Lê Tản Anh, Duy (Nguyễn Thị Minh Khai) và Lưu Quốc Long, v.v... là những người giỏi, bà nói: "Đối với cô các chú đó, mẹ không hề tiếc một cái gì, họ là những người luôn đặt sự nghiệp cứu nước lên trên hết, họ là những người có nhân cách lớn".
Trong một bữa ăn có mắm tôm và ớt, mẹ tôi kể lại một chuyện vui cho các chú ở trong nhà tôi nghe: "Hôm đó nhà ăn mắm tôm, nhân lúc Long (Lưu Quốc Long) ngủ trưa, Tản Anh bôi mắm tôm vào lỗ mũi Long. Ngủ trưa dậy, Long khịt khịt mũi, mấy anh bấm nhau cười, Long ngửi vào người, vào áo rồi vào nhà tắm. Sau khi ra làm việc một lúc, Long lại khịt khịt mũi phàn nàn: Quái, mình đã tắm rửa sạch sẽ, sao vẫn có mùi mắm tôm nhỉ? Nói xong lại ngửi ngửi bàn tay, ngửi cả lên bàn làm việc: Quái, chắc lâu không ăn mắm tôm, hôm nay ăn ngon và ăn nhiều quá, miệng hôi mùi mắm tôm. Nói xong lại vào nhà vệ sinh đánh răng, khi ra mọi người cười phá lên, Thuận (Lý Phương Thuận) hỏi: "Thế nào, hết mùi chưa?". Long nhíu lông mày nói: cứ cảm thấy phảng phất đâu đấy trong phòng (đó là phòng ngủ) này có mùi mắm tôm... Tản Anh chỉ tủm tỉm cười. Thuận cười: - Bọn tôi bôi mắm tôm vào mũi anh đó. Long cười hiền lành nói: "Bậy, bậy quá" rồi lại vào nhà tắm lấy xà phòng thơm rửa lỗ mũi... Duy thì say về chính trị, hễ nghe ai nói về thời cuộc các nước, cô cứ ngây người ra nghe, quên cả ăn. Thuận ngồi cạnh Duy, biết cô không ăn được ớt, nhân lúc Duy chăm chú nghe mọi người bàn luận tình hình các nước tư bản Châu Âu, Thuận cho miếng ớt vào bát, rồi gắp miếng thịt đặt lên trên. Duy không hay biết gì, mắt thì nghe, tay thì và miếng cơm, ăn phải ớt cay xè, mặt đỏ, nước mắt ràn rụa. Duy kêu lên: "Mình gắp phải miếng ớt mà không biết gì cả". Mọi người cười phá lên, Thái Lai (Hà Huy Tập) mải nói không hiểu chuyện gì, vẻ ngơ ngác: "Thuận lấy ngay cốc nước lạnh cho Duy uống". Thuận bưng cốc nước cho Duy, bảo: "Tao cho ớt vào bát mi đó". Duy vừa uống nước vừa xuýt xoa, vừa lau nước mắt: "Con khỉ!" rồi cười nói: "Anh Thái Lai, anh nói tiếp đi!".
Các chú nghe chăm chú và thú vị, còn mẹ tôi vừa kể vừa cười khoái chí. Tôi chăm chú nghe và hình dung cảnh trêu đùa hóm hỉnh giữa các chú, các cô thời đó. Nhưng họ đều là những nhân vật tôi hoàn toàn không biết mặt, họ ở nhà tôi vào những năm tôi chưa ra đời. và tôi ngầm hiểu, trước kia, cũng đã từng có nhiều người theo cách mạng tới ăn ở trong nhà, như các chú bây giờ, chỉ riêng Lý Phương Thuận là tôi biết mặt.
Mẹ tôi còn kể, khi sinh ra tôi, bà không có sữa, tôi được nuôi lớn bằng sữa bò, có chú Bình hay chăm bữa ăn cho tôi, khi tôi nói bập bẹ, hay kêu: "Bình, bò!". Mỗi lần tôi kêu như vậy, thì chú liền đi pha sữa cho tôi ăn. Tôi hỏi: "Chú Bình đâu rồi? Nhà mình có ảnh chú không", bà trả lời: "Các chú từ đâu đến, thầy mẹ cũng không hỏi, rồi đi đâu cũng không hỏi, đó là một nguyên tắc thỏa thuận ngầm với nhau... Đã gọi là hoạt động bí mật, những việc không thuộc phận sự mình không nên biết con ạ... Do đó, sau khi rời khỏi nhà mình, mẹ cũng không biết tung tích các cô chú Thái Lai, Bình, Duy v.v... ra sao.
Còn chú Lưu Quốc Long, nghe chú Tân Dân nói, sau khi rời nhà mình về hoạt động ở Thượng Hải. Một hôm đến chỗ hẹn họp mặt, chạm trán với bọn mật thám Pháp, chú Long bị chúng săn đuổi ráo riết, chú chạy lên tầng cao của tòa nhà nhảy xuống tuẫn tiết.”
Tôi không biết mặt chú Long, nhưng trong thâm tâm luôn lờ mờ hiểu họ là những người "không bình thường", yêu nước và bất chấp hiểm nguy hoạt động cứu nước, do đó cha mẹ tôi mỗi lần nhắc đến họ đều tỏ thái độ hết sức nể trọng. Còn tôi khi nghe chú Lưu Quốc Long hy sinh, tôi vô cùng thương tiếc và cảm phục.
Một hôm, chú Lê Tân Dân từ đơn vị về nhà chơi, trong bữa cơm trưa chú hỏi: "Này các ông, có thèm thịt chó không?". Mọi người hưởng ứng, tôi thích quá chêm một câu: "Cháu cũng thèm thịt chó lắm rồi!". Cả nhà cười ầm, từ đó các chú phong chú Dân là "cẩu nhục tướng quân", còn tôi là "cẩu nhục tiểu thư". Tôi cũng rất khoái cái biệt hiệu đó, mỗi lần các chú gọi "Cẩu nhục tiểu thư ơi", tôi thú vị cười tít mắt. Nói chung, người Trung Quốc không ăn thịt chó (trừ người Quảng Đông).
Sáng hôm sau, tôi thấy trong nhà sôi nổi, nhộn nhịp hẳn lên như một ngày hội. Tôi chạy xuống bếp, hóa ra các chú xúm nhau mổ một con chó đã cạo sạch lông. Bữa trưa hôm đó, trên bàn bày mấy đĩa bát đầy ắp nào dồi chó, nào nhựa mận, nào xúp chó, chả chó nướng thơm phức, và một đĩa giò chó được thái mỏng (đó là món ăn thơm mềm, dành riêng cho cha con chúng tôi, vì cha tôi răng rụng nhiều chiếc, còn tôi răng hà, răng sún, do đó không ăn được các món khác).
Theo mẹ kể, hai chú Dân, Trụ nướng thơm mấy miếng thịt bò bạc nhạc, ra vùng ngoại thành nơi thưa người vào buổi chiều tối, một người đi trước ném thịt bò, dử chó đi theo mình tới chỗ vắng, người đi sau phang một gậy thật mạnh lên đầu chó cho lăn quay không kịp kêu, hai người vội tống con chó vào bao tải, xách về nhà làm thịt. Có lần hai người đánh chó kêu ăng ẳng, chủ nhà chạy ra rượt đuổi, hai chú chạy bán sống bán chết. Vậy là cả nhà muốn có bữa thịt chó thịnh soạn, cũng phải tốn nhiều "cơ mưu" và công phu ra trò. Cho nên suốt hai năm ở Tam Sơn Lý, "cẩu nhục tiểu thư" là tôi cũng chỉ được ăn thịt chó có hai lần mà thôi.
Một buổi chiều rỗi rãi, mẹ tôi xuống ngồi chơi trò chuyện với các chú ở phòng ngoài, chú Lý Quang Hoa chơi cờ với chú Thược, chú Trình ngồi chầu rìa, chú Đông A (Trần Quốc Tuấn) đọc báo, mấy chú Đức, Giai, Lộc v.v... ngồi hóng mát cạnh quạt. Chú Đức hỏi mẹ tôi:
"Chị ơi, bọn tôi nghe nói có ông Nguyễn ái Quốc ở bên Pháp giỏi lắm, phải không chị?".
Được lời như cởi tấm lòng, mẹ tôi kể vanh vách các chuyện về nhân vật kỳ thú siêu phàm này. Nào là "Bản cáo trạng chủ nghĩa thực dân" làm chấn động dư luận thế giới; nào là thực dân Pháp ra sức lùng sục khắp mọi nơi, nhưng không làm sao bắt được ông. Nào là Lý Thụy, tức Nguyễn ái Quốc, bất ngờ bị Anh bắt ở Hồng Công, cuối cùng một luật sư tiến bộ Anh đã cãi trắng án cho ông Lý Thụy v.v... Các chú há hốc mồm ra nghe.
Còn khối óc trẻ thơ của tôi hình dung Nguyễn ái Quốc người cao lớn, đẹp trai, hoạt động đây đó như xuất quỷ nhập thần... Tất nhiên tôi không nhận thức được các vấn đề chính trị, bởi vì tôi mới khoảng năm, sáu tuổi.
Một hôm, mẹ lại kể: "Lý Phương Thuận chơi thân với chị Duy, kể với tôi rằng Duy ái mộ Nguyễn ái Quốc lắm, chỉ ước được gặp Nguyễn ái Quốc ... Một lần tổ chức bố trí Duy làm vợ chồng giả với một đồng chí ở Thượng Hải. Căn phòng chỉ kê được có một giường đôi. Đêm đến, hai người buộc phải nằm chung một giường. Chị Duy lấy chăn xếp lại, ngăn đôi cái giường, và bật đèn sáng trưng để ngủ. Đồng chí đó cất chăn đi, chị Duy lại đặt chăn lại chỗ cũ, đồng chí đó tắt đèn đi thì chị Duy lại bật đèn lên, làm như thế vài lần, đồng chí đó để nguyên trạng. Hai người ở với nhau được một tháng thì tổ chức lại điều chị Duy đi làm công việc khác. Khi Thuận và Duy gặp nhau, Thuận hóm hỉnh hỏi: "Thế nào, có mang chưa mi?". Chị Duy nói: "Con khỉ, người ta sống với nhau với tư cách vợ chồng giả cơ mà". Và chị kể lại đầu đuôi sự tình cho chị Thuận nghe. Chị Thuận nói: "Trời ơi là trời, ngốc ạ, đó chính là đồng chí Nguyễn ái Quốc đấy!". Chị Duy chết lặng đi ...
Mấy chú tấm tắc khen: "Đồng chí Nguyễn ái Quốc cừ thật!".
Tôi hỏi mẹ: "Thế chị Thuận cũng ở Thượng Hải à?"
"Chị Thuận lấy anh Hồ Tùng Mậu, đẻ được hai thằng con trai ở Thượng Hải. Vì phải hoạt động cách mạng, vả lại cũng không có kinh tế nuôi con, cuối cùng cả hai đứa phải cho người ta làm con nuôi...".
Năm 1930, anh Hồ Tùng Mậu bị bắt trong nước, chị Thuận không chờ được, bèn lấy anh Bùi Hải Thiệu. Khi đẻ đứa con gái đầu lòng, chị đến ở nhờ phòng chị Diệc Lan vài tháng, sau đó anh Bùi Hải Thiệu đón hai mẹ con đi nơi khác, đi đâu mẹ tôi không rõ. Thời kỳ chị tôi ở trường nuôi tằm vào khoảng đầu năm 1935, sau Tết âm lịch năm ất Hợi.
Mẹ tôi là người hay chuyện, nhờ đó tôi được nghe nhiều chuyện về cha mình và các chú. Năm 1988, khi đọc hồi ký "Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác Hồ" của Lê Thiết Hùng nói về việc cha tôi lấy tin mật cho Đảng Cộng sản Trung Quốc, tôi không khỏi ngạc nhiên và giật mình. Qua đó ngẫm lại, cha tôi biết bản tính mẹ hay nói ra các chuyện mình biết, do đó, khi ông làm công tác tình báo cho Đảng Cộng sản Trung Quốc với Lê Quốc Vọng, ông giữ sao cho mẹ tôi tịnh không biết một tí gì. Vì nếu hai chị em chúng tôi cũng biết chuyện, và cả những người như Lý Quang Hoa v.v... cũng sẽ biết, thì sẽ rất nguy hiểm. Và nếu Lê Thiết Hùng không công bố hồi ký đó, chắc chắn câu chuyện bí mật này sẽ hoàn toàn câm lặng. Tôi cảm phục cha tôi và nghĩ rằng ông làm như vậy là đúng. Như trên tôi cũng từng nói, mẹ tôi tính nóng và thẳng không đúng chỗ.
Một bữa cơm trưa vào ngày chủ nhật, mọi người vừa ăn vừa chuyện trò vui vẻ, không hiểu mẹ tôi nói câu gì đó, có thể xúc phạm đến các chú. Cha tôi nổi giận đạp mạnh ghế mẹ tôi đang ngồi cạnh ông, bà ngã lăn xuống đất, cha tôi lấy chân đá bà, quát:
"Sống phải biết nghĩ chứ, ăn nói thế có nghe được không?".
Hai chú giữ chặt lấy cha tôi để khỏi đá phải người mẹ tôi. Còn mẹ tôi vẻ mặt biết mình sai nhưng hiếu thắng vẫn nói: "Thì cứ đạp đi...". Tôi vừa sợ, vừa thương mẹ, khóc òa lên.
Đến giờ tôi vẫn nhớ như in cảnh tượng bữa cơm hôm đó. Đó là lần đầu tiên cũng là lần duy nhất tôi thấy cha tôi nổi giận với mẹ. Sau khi các chú đỡ mẹ tôi ngồi lên ghế, cha tôi ăn vội bát cơm rồi bỏ lên nhà...
Bây giờ nghĩ lại, hẳn mẹ tôi hay làm mếch lòng các chú ở trong nhà. Năm 1967, 68 gì đó, một lần đến nhà ông Hoàng Văn Hoan ở Phan Đình Phùng, tôi hỏi:
"Chú ơi, thầy cháu cũng là người thiếu quan điểm lập trường phải không chú? Đảng cộng sản cũng hảo, Quốc dân đảng cũng hảo, phải không chú?".
Ông cười nói: "Thế là cháu chưa hiểu thầy mình rồi cháu ạ. Trong đời, chú chỉ mến phục và kính trọng nhất hai người, đó là cụ Đặng Thúc Hứa, không quản mọi gian nan, bươn chải vì cách mạng và thầy cháu. Thầy cháu không phải đảng viên, nhưng là người cộng sản ngoài Đảng. Thầy cháu dám làm bất cứ việc gì có lợi cho Đảng, thực sự ông không nề hà bất cứ việc gì và luôn phân biệt rõ trắng đen, phải trái..."
"Mẹ cháu thì sao ạ? Mẹ cháu xấu tính phải không chú?".
Ông suy nghĩ một lát:
"Mẹ cháu là người phụ nữ thông minh, sắc sảo, nhưng tính tình rất thất thường... nên có anh em trong nhà không hài lòng ... Cho nên thầy cháu nói với các chú: ‘Tất cả mọi chuyện anh em hãy nhìn vào tôi, nhìn vào tôi thôi ...’”
Vào khoảng thập kỷ bảy mươi, có lần tôi hỏi anh Lê Thiết Hùng:
"Thầy em là con người thế nào? Tại sao không vào Đảng Cộng sản hả anh?".
Anh trả lời: "Thầy là con người tuyệt vời, một lòng vì Đảng, không vào Đảng cũng chẳng ảnh hưởng thái độ chính trị đúng đắn của thầy..."
"Còn mẹ thì làm mất lòng các chú ở trong nhà phải không?".
Anh nói: “ Sinh nở nhiều lần không nuôi được, mỗi lần sinh đều phải dùng thuốc mê lấy đứa bé ra, nên mẹ em mắc chứng tâm thần phân liệt, bây giờ vợ chồng em cũng rất khổ vì tính mẹ phải không? Khi mẹ nói linh tinh là khi đầu óc không tỉnh táo, nhưng các anh em trong nhà không hiểu. Thực ra mẹ hoàn toàn không tiếc miếng ăn đối với các anh em. Bác Hồ có lần hỏi anh: - Hình như bà Hồ Học Lãm có chứng tâm thần phải không?".
Tôi giật mình về nhận xét của Bác Hồ.
Mẹ tôi rất tự hào về nhân cách và hành vi của cha tôi. Khi ở Trung Hoa Trong tủ sách gia đình vẫn lưu giữ "Binh sự tạp chí" và bà hay giới thiệu cho các chú trong nhà đọc. Hình như các chú không lấy gì làm tán thưởng các bài luận văn chính trị của cha tôi đăng ở trong tạp chí, khiến mẹ tôi bức xúc lắm. Trong một bữa cơm trưa, khi không có cha tôi ở nhà, bà nói: "Ông Hồ Học Lãm cũng chẳng tiếc một cái gì với anh em cách mạng, kể cả tính mạng của mình. Một lần anh Cả (Nguyễn Lương Bằng) từ Thượng Hải điện cho ông nhà tôi, nhờ cứu một đồng chí bị tình nghi là cộng sản, đang bị bắt bỏ tù và có nguy cơ bị xử bắn. Khi ông Lãm gặp trùm đặc vụ Trần Thành, đề nghị hắn tha bổng, Trần trả lời: ‘Cộng sản là kẻ thù chung của thế giới, dù là người Việt Nam, chính phủ Trung Quốc bắt được cũng có quyền xử tử hình, cho nên không thể thả được!’. Ông Lãm phải gọi điện thẳng cho Tưởng Giới Thạch và nói: ‘Người Việt Nam đó cũng là người yêu nước như tôi. Sau này nếu các ông tìm được chứng cớ, vì tôi mà phải thả nhầm thì tôi xin lấy đầu của mình thế vào’. Cuối cùng Tưởng ra lệnh thả. Tưởng có câu nói chống Cộng khét tiếng: ‘Thà giết nhầm một trăm người còn hơn thả nhầm một người’. Đêm nào Vũ Hoa Đài cũng có tiếng súng, giết hàng loạt thanh niên bị tình nghi là cộng sản. Thậm chí họ chôn sống hàng trăm thanh niên ở Vũ Hoa Đài. Đây là những tin mật ông Lãm nắm được. Ông Lãm chẳng qua như cá nằm trên thớt, nếu cần, chúng thịt khi nào mà chẳng được".
Chuyện cha tôi cứu đồng bào yêu nước tôi được nghe mẹ tôi kể lại hai lần, nên nhớ rất kỹ. Năm tôi mươi mười hai tuổi, nhớ lại câu chuyện đó, tôi hỏi mẹ có nhớ đồng chí đó là ai không, mẹ tôi nói: "Mẹ quên tên, vì thầy con cứu anh em cộng sản nhiều lần...". Về sau tôi có hỏi anh Lê Thiết Hùng, anh trả lời: "Anh cũng có nghe chuyện, nhưng quên không nhớ là ai...".
Bữa ăn ngày chủ nhật thường tươi hơn mọi ngày và trong bữa ăn mọi người cũng trò chuyện rôm rả hơn. Cha tôi nói: "Có anh bạn đồng sự, thấy mình làm việc chăm chỉ, có hiệu quả thực sự, anh ta nói: ‘Hồ Học Lãm, anh làm việc tốt như vậy mà vẫn chỉ là trung tá, sao không tìm gặp Bạch Sùng Hy, Lý Tế Thâm nói chuyện để họ cất nhắc cho’. Mình trả lời:
- Đã đành có chơi thân với nhau lúc ở trường "Bảo Định quân hiệu", nhưng nay họ đều là tướng lĩnh cấp cao, mình đến gặp cũng làm phiền người ta. Họ lại bận trăm công nghìn việc ...
- Hồ Học Lãm ơi là Hồ Học Lãm, anh khái tính quá...".
Hoặc: "Trước kia họ từng gợi ý mình vào Quốc dân đảng...". Một chú hỏi: "Thế cụ bảo sao?".
“Lúc đầu mình ậm ừ cho qua chuyện. Về sau trong một lần chuyện trò trên bàn mạt chược, mình nói: ‘Các ông xem, tôi là người nước ngoài, liệu các ông có tin tưởng hoàn toàn ở tôi không?’
‘Sao không tin, làm việc với ông bao nhiêu năm trời, hiểu ông quá chứ’.
Mình cười: ‘Các ông tin, nhưng tổ chức tối cao có tin không?... Tôi là học trò của Phan Bội Châu tiên sinh, nay ông ấy bị bắt, tôi cũng có phần nản chí, thôi sống qua ngày, nuôi vợ con, chẳng màng công danh sự nghiệp nữa đâu...’.”
Nói xong, cha tôi cười ha hả, rồi nói tiếp với các chú: “Khó lắm, khó lắm, không đơn giản đâu. Mình với họ cùng là sĩ quan Bộ Tổng tham mưu thật đấy, nhưng ‘đồng sàng dị mộng”.
Sở dĩ tôi nhớ câu chuyện hôm đó vì lúc đó tôi vẫn tưởng Quốc dân đảng là tốt, khi nghe câu chuyện của cha làm tôi ngờ ngợ, phân vân mãi. Về sau tôi hỏi mẹ: "Quốc dân đảng có tốt không hở mẹ?". Mẹ cười nói tránh đi: "Hỏi làm gì việc người lớn... Quốc dân đảng không xấu, nhưng con không được nói chuyện linh tinh với người ngoài đâu nhá!". "Thế đồng sàng dị mộng là nghĩa thế nào?", "Nghĩa là nằm chung một giường nhưng chiêm bao khác nhau!", "Khác nhau như thế nào cơ?", "Họ làm quan chỉ cốt được thăng quan tiến chức, vinh gia phì thân... Còn cha con chỉ mong cứu nước, thoát ách nô lệ, hiểu chưa?"
Từ những câu chuyện trong các bữa ăn, dần dần tôi ý thức được chí hướng của cha mẹ mình và các chú là cứu nước, nghĩa là sau này lớn lên mình cũng phải cứu nước. Tất nhiên đối với đứa trẻ chỉ nghĩ đơn giản việc cứu nước là phải học giỏi, làm việc giỏi. Còn làm việc cứu nước như thế nào thì cứ tưởng đơn giản là làm một việc gì đó rất mơ hồ...
Đến tháng tư, tháng năm năm 1936, khi đó tôi gần sáu tuổi, thì gia đình dọn về chỗ ở mới. Trước khi dọn về đó, các chú Đỗ Đăng Trình, Đông A v.v... trở về Côn Minh, các chú Lý Quang Hoa, Thược, Đức, Lộc, Giai ra ở khu dân nghèo. Họ thuê một căn nhà lá khoảng mười lăm mét vuông. Mẹ, chị Lan và tôi có đến thăm. Chú Hoa vẫn đi làm ở Bộ Tổng tham mưu, các chú khác làm các công việc lao động chân tay, cuộc sống cũng rất kham khổ, chật vật. Tôi hỏi mẹ tại sao các chú ra ở riêng. "Các chú cũng muốn tìm cách tự lập, bớt gánh nặng cho thầy con. Vì xuất bản báo Việt Thanh tốn kém quá, nhà mình cũng có khó khăn về kinh tế...".
Khi gia đình tôi chuyển về chỗ ở mới, các chú lại quay về ở với gia đình như ngày trước, vì nay cha mẹ tôi chỉ phải trả tiền thuê nhà mỗi tháng có ba mươi lăm đồng thôi. Còn các chú ra ở riêng, nhưng lại không kiếm ra tiền, chỉ dựa vào lương của chú Lý Quang Hoa, không sao xoay xở được. Vậy nên cha tôi bảo mẹ tôi lại mời các chú về Long Vương Miếu ở cùng gia đình.
Về sau tôi mới biết, tình hình chính trị giữa Trung Quốc với Nhật ngày càng xấu. Lúc đầu Nhật đánh chiếm Đông Tam Tỉnh[1], sau đó gây hấn ở Lư Cấu Kiều để chuẩn bị tấn công Hoa Nam. Nhân dân vùng Đông Bắc Trung Quốc "tị nạn" về Nam Kinh ngày càng đông. Giá cả thị trường ngày càng đắt đỏ. Lương của cha tôi có hạn, do đó gia đình dọn về chỗ ở mới để dễ thu xếp cuộc sống hơn.
*
* *
Đó là khu chung cư do Hội phật giáo khu phố Long Vương Miếu xây. Một dãy năm căn hộ biệt lập mái ngói một tầng nối liền nhau. Cổng trước các căn hộ nhìn ra mặt đường với khoảng đất trống rộng mênh mông, khiến tôi liên tưởng tới sân trước của căn hộ ở Pháng Ngọa Cảng. Nhưng khu chung cư này cao ráo sáng sủa, thoáng rộng và đẹp hơn, chỉ có một dãy nhà ở. Cửa sau của các căn hộ mở ra sân sau, đó là một sân khá rộng với một ngôi chùa bỏ hoang, nghĩa là năm gia đình chung nhau một sân sau và sống với nhau hòa thuận, không có sự chung chạ, va chạm.
Mặt tiền của các căn hộ rộng khoảng sáu mét. Chiều dọc kéo dài khoảng mười hai mét. Cấu trúc của nhà là một nửa chiều ngang rộng ba mét xây nhà ở kéo dài ra sau hết chiều dài. Còn lại ba mét ngang có một phòng mở thoáng rộng với cổng gỗ to, một đường đi lát sỏi rộng khoảng một mét rưỡi chạy dọc ra cửa sau. Dọc theo tường bao với đường đi là rẻo đất dài, mẹ tôi trồng các loại hoa. Ngôi nhà gồm bốn phòng ở và nhà bếp, công trình phụ với diện tích rộng tương đương. Ba phòng chính đi chung một cửa ra vào ở phòng giữa. Phòng rộng khoảng mười tám mét, làm phòng ăn và phòng tiếp khách, ở giữa phòng đặt bàn tròn rộng với mười hai ghế đẩu. Bên phải là phòng ngủ của ba mẹ con kê một giường đôi và một giường đơn. Bên trái có một hành lang nhỏ đi vào phòng ngủ của cha tôi rộng khoảng sáu, bảy mét vuông, tuy nhỏ nhưng có cửa sổ kính sáng sủa nhìn ra mặt đường. Tất nhiên cửa kính luôn đóng chặt. Một bàn làm việc chất đầy các loại báo chí - cách bày biện và cuộc sống của cha tôi vẫn y nguyên như cũ. Cứ về nhà là ông trút bỏ quân phục, thay bộ áo dài thụng và ngồi trước bàn đọc báo và làm việc. Cạnh hành lang một phòng nhỏ bốn, năm mét vuông là kho chứa va ly đồ đạc. Một phòng rộng khoảng tám mét gần bếp, các chú ở đó. Khi dọn về đây, các chú Thược, Giai, Văn, Hoa... về ở cùng. (Một số các chú khác về ở Côn Minh). Chú Trụ đen theo chú Tân Dân làm thợ cắt tóc cho đơn vị bộ đội. Hai chú vài tuần về chơi nhà một lần. Phòng sát cổng rộng khoảng hai mươi mét vuông, kê một giường đôi và một chõng tre, mùa hè các chú ra ngủ ở đó cho thoáng mát, trừ chú Văn người Lào. Tất nhiên chỗ ở mới này không rộng rãi, khang trang như ở Tam Sơn Lý. Ngày hai buổi cha tôi và chú Lý Quang Hoa đi làm. Còn các chú khác giúp mẹ tôi chợ búa, cơm nước, quét dọn nhà cửa. Tôi rất thích nơi ở này.
Ngôi chùa bỏ hoang, các pho tượng không được chăm sóc, bụi và mạng nhện giăng đầy, trong đó chất đầy gỗ làm nhà của Hội phật giáo. Nhưng điều quan trọng, ở cuối ngôi chùa đàng kia có một gian phòng cho sư ở, có một ông đạo sĩ. Đó là một người đàn ông búi tó trên đỉnh đầu, mặc áo quần mầu chàm, thắt dây thừng ngang lưng. Trong mắt tôi, trang phục của đạo sĩ, và cả cách ăn vận của các nhà sư Trung Hoa nữa, trông thật lạ mắt. Hàng ngày hai buổi, ông đi nhờ qua nhà với một cái sọt rỗng địu sau lưng, khi về địu nhiều thứ lặt vặt ông vừa nhặt từ các thùng rác về. Mỗi lần đi qua nhà, ông mỉm cười gật đầu với mọi người, trông nụ cười rất hiền lành. Gương mặt ông dài, với các nét thẳng thớm, với bộ râu dê đã điểm hoa râm. Nhìn ông, tôi lại liên tưởng đến các tranh truyện cổ trong các bao thuốc lá Mỗi một bao thuốc lá thường có một tấm tranh liên hoàn vẽ các chuyện Tam Quốc, Đông Chu, đây là một cách khuyến mại thuốc lá thời kỳ này ở Trung Quốc. Trẻ con rất thích sưu tầm các tấm tranh to bằng tấm các-vi-dít. Đặc biệt gương mặt thuôn thuôn, sống mũi cao cao, đôi mắt hiền lành với búi tóc và chòm râu thưa của ông làm tôi liên tưởng đến Khổng Minh, một nhân vật tài giỏi siêu phàm trong truyện Tam Quốc mà mẹ tôi hay kể cho các chú Giai, Thược nghe. Có lần tôi nằm gác đầu trên đùi mẹ, ông đạo sĩ từ ngoài đi vào, cho tôi một hộp gỗ đồ chơi mà ông nhặt được, hay ông mua (?), nhưng đã lau rửa sạch sẽ, trông như mới nguyên. Hộp đó gọi là "Thất xảo bản" (bảy miếng gỗ có hình thù khác nhau, với một tấm giấy có các hình khác nhau, để trẻ con xếp hình, luyện trí thông minh). Một hôm khác ông mang về một con búp bê cũ nhưng còn tốt đưa cho tôi. Mẹ tôi nói, hàng ngày ông kiếm sống bằng nhặt các đồ phế phẩm đem bán. Ai nói gì ông cũng chỉ cười, gật đầu và làm dấu, chẳng nói chẳng rằng. Cả nhà gọi ông là "đạo sĩ câm". Một lần ngồi hóng mát ở nhà ngoài, mẹ tôi kể rằng: người ta nói ông đạo sĩ này là người Hồ Nam (là nơi khá xa Nam Kinh). Vì giết người tình của vợ, ông phải trốn ở ngôi chùa này và làm đạo sĩ. Tôi ngạc nhiên, thật không thể tin con người như ông lại có thể giết người. Một buổi chiều, tôi ra chơi sân sau, thấy ông đạo sĩ lạy sống lạy chết một bà láng giềng, còn bà kia trên tay cầm một pho tượng Phật, ngồi chễm chệ trên ghế đang chửi ông. Tiếng Hồ Nam rất khó nghe, tôi chẳng hiểu bà chửi gì, nhưng trông ông đạo sĩ thật tội nghiệp, chỉ câm lặng lạy. Đứng xem lâu cũng chán, tôi bỏ về nhà. Do thương ông đạo sĩ, tôi hay tha thẩn đứng cạnh trong phòng ông, xem ông xếp "Nguyên bảo". Đó là những tờ giấy trang kim bằng bạc hoặc bằng vàng, ông xếp thế nào đó, làm chúng trông giống như những thỏi vàng, bạc cổ xưa và rất đẹp. Vào những ngày đó, chắc là ngày tuần, ông lấy chúng ra hóa vàng. Ngày ông ăn hai bữa cơm hết sức đạm bạc, quần áo ông mặc có những mụn vá to ngay ngắn, sạch sẽ. Về sau tôi mới biết: từ trong chùa đi ra ngoài phố, ông đạo sĩ phải đi nhờ qua một trong những căn hộ, nhưng chẳng gia đình nào cho ông đi nhờ cả, chỉ riêng mẹ tôi là cho ông đi qua, ngày hai buổi sáng chiều.
ở đấy, tôi cũng có những người bạn nhỏ láng giềng, chúng tôi hay rủ nhau dạo trong các ngõ phố đông và chật hẹp. Một hôm, thấy có đám người xúm đông xúm đỏ, có tiếng quát tháo và tiếng khóc thảm thiết, lũ trẻ chúng tôi tò mò cố chui vào phía trong. Tôi thấy một người đàn ông cao to, lực lưỡng, bàn tay hộ pháp của hắn túm mớ tóc dài của một người đàn bà đang nằm sóng soài dưới đất, chị ta mếu máo van xin, nhưng người đàn ông đó không hề động lòng, bàn chân to như bàn cuốc liên tục đá không thương tiếc vào đầu vào mặt người đàn bà, máu chảy đầy mặt và cả trên nền đất. Không một người nào can ngăn. Tôi bị sốc trước cảnh dã man và máu me, người nao nao buồn nôn, vội lủi ra chạy về nhà. Song hình ảnh bất nhẫn và tiếng khóc của người đàn bà ám ảnh tôi nhiều ngày. Về sau, hễ cứ nghe tiếng gì như tiếng khóc của đàn bà là tôi lại nôn nao và bồn chồn. Một hôm, ngồi trên xe kéo cùng mẹ, thấy một bà già tóc bạc phơ đang ăn xin. Tiếng kêu nghe rất thê thảm, người tôi lại nôn nao bứt rứt. Mẹ tôi nói: "Con thấy đấy, có nhiều người nghèo không có lấy một miếng ăn". Cho nên hễ có ăn mày đến cổng ăn xin, mẹ tôi thường lấy cơm nguội và thức ăn thừa cho họ.
Về Long Vương Miếu, nhà ở gần rạp chiếu bóng. Cả gia đình tôi thường đi xem phim. ở đây được xem cả phim Liên Xô. Tôi nhớ có một chú bảo với mọi người: Trung Quốc là thành viên của năm nước Đồng Minh (Anh, Mỹ, Pháp, Liên Xô và Trung Hoa dân quốc), do đó chính phủ Trung Hoa (Quốc Dân Đảng) cho chiếu phim Liên Xô, mặc dù họ chống cộng ráo riết. Nhờ vậy, tôi được chị và mẹ chỉ trên màn ảnh, đó là Stalin, Lênin đấy. Với cặp mắt trẻ thơ, tôi thấy Stalin có bộ ria đẹp và oai, với nụ cười dễ mến. Lênin có bộ râu vểnh, trán hói với động tác cử chỉ nhanh nhẹn, sôi nổi cũng thật khác người. Mầm cây sùng bái lãnh tụ bắt đầu đâm chổi nảy lộc. Do đó, tôi yêu cả đất nước Liên Xô, vì nhân dân Liên Xô tươi vui như ngày hội. Tất nhiên, còn do chị tôi luôn miệng nói: "Lênin vĩ đại, Stalin vĩ đại".
Tôi hỏi:
- Thế nước Liên Xô có ăn mày không? Có đàn ông đánh đàn bà không?
- Liên Xô không có ăn mày, ai ai cũng có cơm no áo ấm. Họ làm việc hết sức mình và được hưởng mọi thứ do họ làm ra. Tất nhiên không có chuyện đàn ông đánh đàn bà, đàn ông đàn bà có quyền như nhau, gọi là nam nữ bình quyền em ạ!
- Thích quá nhỉ, hôm nọ em ra đường, thấy một người đàn ông đánh một người đàn bà, sợ ơi là sợ. Thế là Trung Quốc không có nam nữ bình quyền phải không?
Chị tôi có đôi mắt to tròn và sáng, nghe tôi hỏi, chị tròn mắt nhìn tôi với nụ cười vừa vui vừa hóm:
"Trung Quốc đang đấu tranh đòi nam nữ bình quyền..."
Tất nhiên, không thể lý sự chính trị với đứa trẻ chưa tròn sáu tuổi được. Hôm sau, chị với mẹ bàn nhau phải giải quyết việc học hành cho tôi, bởi vì tôi đã đến tuổi đi học rồi. Chị tôi mua về một tập giấy màu, một hộp tranh có chữ, một hộp bút chì mầu, giấy, dao gọt bút chì, một túi đựng sách khoác ở vai. Chắc chắn lúc đó mắt tôi long lanh, miệng cười ngoác lên. Buổi sáng, chị dạy tôi nhận biết các loại màu, buổi chiều mẹ lấy các miếng giấy bìa cứng hình vuông, một mặt là chữ, một mặt là hình vẽ. Mỗi người dạy trong một tiếng. Cứ như thế, hai người dạy tôi vài ngày, mẹ tôi đã khoe chú Thược: "Con La một buổi chiều học một tiếng đấy, nhận được năm mươi mặt chữ". Chú Thược tròn mắt cười nói: "Con bé khá quá nhỉ, thế là nhanh quá đấy, giỏi!". Trong bụng tôi nghĩ, giỏi gì mà giỏi, nhận mặt chữ dễ ợt. Một sáng đẹp trời, chị đưa tôi vào trường "ấu Trĩ Viên" (mẫu giáo) giới thiệu với cô giáo và tôi bước vào cuộc sống ngày hai buổi đến trường. Chú Thược và chú Văn thay phiên nhau đưa và đón tôi đi học. Tôi rất thích thú vì được học vẽ, cắt giấy, học hát học múa và học chữ. Học khoảng ba tháng, đến đầu tháng 9 năm đó (1936) tôi vào học lớp một. Việc được tới trường với tôi thật vừa mới mẻ, vừa hào hứng. Chiều về, tôi lấy vở và bút chì ra tập viết, nghĩa là tôi không chỉ nhận được mặt chữ, mà còn biết cách viết các chữ. Trong đó có cả cách học viết tên mình. Trong thâm tâm, tôi rất ghét tên của mình, bởi vì hai chữ Mộ La[2] nhiều nét phức tạp, khó viết đẹp, hơn nữa cái tên gọi lên chẳng kêu gì cả, nam bất nam, nữ bất nữ. Giá như cha mẹ tôi đặt tên là Xuân Lan hay Thu Cúc gì đó, thì ra tên con gái hơn. Sau này, lớn tuổi hơn, các bạn còn trêu làm tôi hơi chột dạ: "Tên mày chẳng giống tên người Trung Quốc", "Thì tao là Hoa kiều ở Indonexia về mà!", "ừ, thảo nào nước da mày đen thế!". Khi đó tôi mới vững dạ, mặc dù bạn học chê mình da đen. Tóm lại, cái tuổi lên sáu, lên bảy, tôi bắt đầu tiếp xúc rộng ra thế giới bên ngoài, và chắc có khôn hơn trước...
Sau khi chị tôi nghỉ làm ở Trường nuôi tằm, về ở hẳn với gia đình, và tôi được gần gũi với chị nhiều hơn. Nhiều buổi hai chị em lấy kéo cắt hình rồi xếp hình, rồi vẽ chuột Miki, vẽ bảy chú lùn. Tất nhiên chủ yếu chị vẽ, cắt, xếp, tôi cố làm theo những hình, tranh của tôi xấu và hỏng nhiều. Nhưng tôi vô cùng thích thú. Thích nhất là đến tối, khi ba mẹ con nằm chung một giường, chị tôi nằm giữa, mẹ nằm ngoài cùng, tôi nằm trong cùng rồi tắt đèn nghe chị kể chuyện Anđecxen, truyện cổ Grim và đặc biệt chuyện "Một nghìn một đêm lẻ", chủ yếu là bằng tiếng Trung. Tôi thầm phục chị tôi vì đọc nhiều nên biết nhiều chuyện ly kỳ và thú vị. Có những chuyện về sau tôi được xem trên màn ảnh hoạt hình như "Em bé bán diêm", "Con vịt xấu xí" v.v... Có những chuyện làm tôi khóc thút thít vì cảm động, bị mẹ và chị mắng: "Có gì là đáng khóc đâu, chuyện bịa ấy mà". Tôi nghĩ thầm "chuyện Lọ Lem bị mụ dì ghẻ hắt hủi giống hệt chuyện A Bảo, là có thật đấy chứ. chỉ có điều A Bảo là con trai, nên cậu ấy không được bà tiên trợ giúp..."
Đó là những ngày nhiều kỷ niệm đẹp, cuộc sống điểm sắc màu thơ mộng... Được xem phim hề Charlie Chaplin, tôi yêu thích nhân vật hề có ria như hai cục mực ở hai bên nhân trung, đôi mắt to tròn, đi chân chữ bát với đôi giày to quá cỡ v.v... Về nhà tôi như con khỉ con đóng giả các động tác Charlie Chaplin, khiến cả nhà cười bò. Mọi người bảo lớn lên tôi có thể sẽ là minh tinh màn bạc. Rồi đến một phim, cô thiếu nữ tiễn người yêu trong rừng, ngựa phi đưa người yêu đi xa, cô thiếu nữ hát một đoạn nhạc vocalise rất du dương. Tôi yêu và nhớ nhập tâm đoạn nhạc đó. Về nhà tôi quấn khăn trải giường quanh người giả làm váy dài, rồi hát "Aaa", theo giai điệu đó. Chị tôi bảo tôi hát rất đúng nhạc. Khi hát, hai tay tôi chắp trước ngực, đôi mắt đung đưa để biểu tỏ tình cảm, hẳn là hồn nhiên lắm. Các chú cười thú vị. Riêng ông Lý Quang Hoa bảo: “Lớn lên con bé này lẳng lơ lắm đấy”! Tôi hỏi: "Lẳng lơ là gì hở mẹ?". Bà cười, không nói. Một chú bảo: "Trẻ con như con khỉ con, đã biết gì đâu!"
Trẻ con rất thích khách đến chơi nhà. Một ngày chủ nhật, cha tôi rủ mấy bạn đồng liêu đến nhà xô mà chược (vì thỉnh thoảng ông cũng đến nhà bạn chơi như vậy), thế là tôi được cho kẹo, còn mẹ tôi và một chú hầu nước và nấu chè đậu xanh mời cả hội ăn điểm tâm (tất nhiên tôi được ăn ké).
Sau này, có lần tôi hỏi mẹ: "Mẹ ơi, mẹ bảo đánh bạc là xấu. Vậy mà khi ở Nam Kinh, con thấy thầy cũng mời bạn bè đến nhà xô mà chược". Bà trả lời: "Thầy con đánh bài để ứng thù[3], một cách ứng xử xây dựng quan hệ ngoại giao với đồng liêu con ạ. Con xem, ở nhà thầy con làm việc suốt ngày, có khi nào nghỉ ngơi đâu? Mẹ con mình đi vãn cảnh đây đó, chụp ảnh, có khi nào thầy con cùng đi đâu?... Thật ra, xô mà chược là việc cực chẳng đã...".
Sau khi tôi lên học lớp một, có hai lần cha tôi đưa tôi đi chơi vào ngày chủ nhật.
Lần thứ nhất, cha dẫn tôi vào một tòa nhà sang trọng, dự tiệc cưới con trai người bạn học. Lần đầu tiên đến đám cưới (cũng là lần duy nhất). Người đông chật và mọi người ăn mặc sang trọng, họ cũng dắt trẻ con đi theo. Sau khi đưa "tiểu hồng bao" (phong bì đỏ), ông trò chuyện hàn huyên với mấy người rồi dắt tôi vào ngồi một bàn tròn. Khi ăn, cha gắp những thức ăn ngon và lạ miệng cho tôi. Ăn xong, mọi người lên gác đến phòng cô dâu chú rể gọi là "náo tân phòng" (trêu đùa cô dâu chú rể), một người lấy từ trong một thùng gỗ sơn son thếp vàng rất đẹp và có nắp đậy hẳn hoi ra rất nhiều kẹo, phân phát cho trẻ con, gọi là phát lộc, sinh con đẻ cái đầy đàn (cái thùng gỗ đó sau này sẽ là cái bô).
ấn tượng chung về đám cưới nhà giàu là phô trương bề thế, sang trọng và các thứ đều màu đỏ rực như trong phim ảnh. Tôi thích lắm, đúng là "đi một ngày đàng học một sàng khôn", tất cả đều khiến tôi cảm thấy mới mẻ và thú vị. Tôi chỉ ước ao thỉnh thoảng được cha dẫn đi ăn đám cưới. Tối muộn hai cha con mới về tới nhà.
Lần thứ hai, là vào một sáng chủ nhật, cha dắt tôi đi chơi "Phu Tử Miếu" (Miếu thờ Khổng Tử). Hai cha con thủng thẳng đi bộ. Bàn tay nhỏ của tôi nằm lọt thỏm trong bàn tay to, mềm, ấm áp của cha. Ông đi khoan thai, chậm rãi, hai luồng nhãn quang phóng về phía trước. Tôi luýnh quýnh đi hai bước một mới theo kịp một bước chân của cha. Thỉnh thoảng tôi ngước mắt nhìn ông, trong lòng sung sướng, tự hào. Khi đến nơi, ông vào một quán trà ngoài trời, gọi một "bát" trà, vừa hút thuốc lá vừa uống trà, hai luồng mắt như phóng về cõi vô tận, ông nghĩ suy điều gì đó. Còn tôi vừa ăn kẹo, vừa nhìn người qua lại. Kể ra, đối với trẻ con như vậy thật buồn tẻ. Nhưng vì chẳng mấy khi được cha quan tâm dắt đi chơi, nên sung sướng tràn ngập trong lòng tôi, át đi mọi cảm nhận khác. Khi trở về nhà, cha ghé vào một cửa hàng sang trọng mua tôm he rim đỏ rồi hai cha con ngồi xe kéo về nhà. Bữa tối hôm đó ai cũng khen tôm rim ngon quá. Mọi người nói chuyện rôm rả. Cha tôi nói:
"Trương Học Lương mời Tưởng lên Tây An bàn chuyện thống nhất quân đội dưới sự chỉ huy của Tưởng để kháng Nhật. Khi Tưởng lên ở một biệt thự sang trọng, Trương đưa ra yêu cầu Tưởng phải hợp tác với đảng Cộng sản Trung Quốc để cùng nhau chống Nhật, Tưởng tỏ ý phản đối. Trương tuyên bố: "Nếu Tưởng không nhận lời thì Trương sẽ không thả Tưởng về Nam Kinh". Cuối cùng buộc Tưởng phải gặp đại diện Đảng Cộng sản và ký kết "Quốc Cộng hợp tác kháng Nhật". Nói xong cha tôi cười khoái chí và hóm hỉnh: "Do đó vừa rồi Bộ Tổng tham mưu rối mù, và cả cơ quan cuống quýt. Nay Tưởng đã về Nam Kinh an toàn, song cũng bẽ mặt. Ông ta yêu cầu mọi người trong cơ quan viết "Thư hiến kế chống Nhật". Tôi vừa viết xong bức thư với nội dung: Một, nước ta (cha tôi phải viết với tư cách là người dân Trung Quốc) đất rộng, người đông, tài nguyên phong phú, tiềm lực nhân tài, vật lực dồi dào mà nước Nhật bé con không thể bì được; hai, nếu huy động mỗi một người dân góp một đồng, chúng ta sẽ có một khoản tiền lớn để mua trang thiết bị quân sự; ba, nếu chính phủ ta kêu gọi đoàn kết các đảng phái yêu nước cùng đồng lòng chống Nhật, khả năng thắng Nhật dễ như trở bàn tay..."
Các chú vui vẻ tỏ ý thích thú và tán thành. Một thời gian sau, trong bữa cơm tối, cha tôi đưa một phong bì dầy cộp đặt trên bàn ăn và nói: "Bốn ngàn đồng tiền thưởng về bức thư hiến kế đây!". Mọi người trầm trồ. Cha tôi nói: "Nhưng chưa hiểu họ có chấp nhận ý kiến của mình không? Do nhân dân đấu tranh mạnh, Tưởng bề mặt hợp tác với cộng sản, bên trong vẫn ngấm ngầm tiêu diệt cộng sản, cái nguy hiểm của Tưởng là ở chỗ đó".
Xuân hè 1937, trong bữa cơm tối, cha tôi hay nói tình hình thời sự Trung - Nhật. Một hôm mọi người bàn tán vụ Nhật gây hấn ở Lư Cấu Kiều, cho rằng Nhật sắp đánh Thượng Hải và Nam Kinh... Năm đó tôi gần tròn bảy tuổi và sắp học hết lớp một. Mọi người xôn xao vấn đề chính trị, tôi chả hiểu tý gì, tháng ngày vẫn đi học đều. Cuối học kỳ tổng kết học tập, một bạn trai đứng nhất lớp, tôi đứng nhì lớp. Hàng ngày tôi tự động làm bài tập, nhưng chỉ học trọn vẹn những gì mà trường dạy, do đó không được giỏi như chị tôi, từng học vượt lớp. Mẹ tôi nói tôi không thông minh bằng chị, lại không hiếu học bằng chị.
Một hôm có một người phụ nữ rất xinh đẹp mặc áo dài trắng, đi xăng-đan trắng, tay xách ví đầm trắng sang trọng, tay kia xách cái hộp bánh kẹo đến thăm gia đình. Mẹ tôi cùng người phụ nữ đó tay bắt mặt mừng. Tôi thì mắt sáng lên, lòng khấp khởi về quà bánh. Hai người nói chuyện rôm rả, rất lâu, nhưng chị không chịu ở lại ăn cơm tối với gia đình, sau vài tiếng, chị đi ngay. Khi chị Diệc Lan về nhà, mẹ kể chuyện với chị tôi:
"Chiều nay chị Lý Phương Đức đến chơi. Chị kể chuyện vừa từ Hồng Kông đến giải quyết một số việc rồi đi ngay. Chị âý vẫn đẹp như xưa. Chị Thuận kể chuyện với mẹ chị Đức rất yêu anh Lê Hồng Phong, theo đuổi anh ấy, nhưng anh ấy trốn tránh vì không yêu chị. Đức đau khổ lắm... Chị kể chuyện với mẹ là sau khi bị bắt về nước, bị Pháp tra tấn dã man, cuối cùng vì không tìm được chứng cớ, đành phải thả. Chị về Hồng Kông với anh ruột Ngô Chính Quốc. Cũng như Ngô Chính Quốc, chị bị tổ chức Đảng nghi ngờ, xa lánh. Nay chị lấy một người Trung Quốc làm cùng công sở. Chị tâm sự với mẹ đã có một đứa con trai hơn một tuổi. Hai người rất yêu nhau, nhưng anh Ngô Chính Quốc bắt chị ly dị với chồng, để lấy Đặng Xuân Thanh, người mà chị không hề yêu thương".
Chú Đặng Xuân Thanh từng ở tầng hai nhà bố mẹ tôi tại Tam Sơn Lý. Chú là con người ít nói, hầu như không quan hệ với bất cứ ai trong các chú ở tầng một. Mẹ tôi kể: "Chú Hoa, chú Thược và chú Thanh vốn từng quen biết nhau ở Thái Lan[4]. Không hiểu vì lý do gì, các chú ấy rất ghét nhau, do đó ở cùng nhà mà hoàn toàn không nói chuyện với nhau". Mẹ bảo: "Chú Lý Quang Hoa nói chú Thanh là đặc vụ của Quốc dân đảng Trung Quốc".
Mẹ nói nếu quả thật như vậy thì các chú kia và chú Hoa tất đã bị bắt, và gia đình mình cũng sẽ tan nát, chẳng thể sống yên. Chú Thanh thì chê các chú kia lười biếng, chẳng chịu học hành, không chịu làm việc... Chú Thanh rất quý trọng cha mẹ tôi. Chú Thanh ở nhà tôi khoảng một năm, từ khoảng tháng 8 năm 1934 đến tháng 8 năm 1935. Mẹ nói vì chú không chịu đựng được các chú Hoa, Thược... nên bỏ đi ở nơi khác. Sau đó, hầu như chú không quay về thăm gia đình tôi lần nào.
Sau chị Lý Phương Đức, khoảng tháng 7 năm 1937, có một người đàn ông cao lớn, đẹp trai, mặc bộ comple trắng, đội mũ trắng và đi giày da trắng cũng từ Hồng Kông đến thăm gia đình tôi. Ông cũng mang mấy hộp bánh kẹo sang trọng, khiến tôi lại xốn xang trong lòng. Sau khi người đàn ông ấy đi khỏi, mẹ kể chuyện đó là Ngô Chính Quốc, đến Nam Kinh sắp xếp hôn nhân cho em gái, vì ông không muốn em gái mình lấy người Trung Quốc. Tất nhiên cuộc viếng thăm của hai anh em rơi vào những buổi cha tôi đi làm, do đó ông không gặp họ. Các chú trong nhà ở nhà dưới cũng không hay biết gì. Và mẹ tôi cũng không kể chuyện cho các chú ấy nghe. Cũng là đi cứu nước, mỗi người mỗi số phận, nhưng có một điều là hễ ai từng bị Pháp bắt rồi thả, Đảng sẽ xa rời họ, dù lòng họ vẫn kiên trinh, trung thành với Đảng, với Tổ quốc, điển hình là chị Lý Phương Đức.
Tôi còn nhớ, khoảng thập kỷ bảy mươi, bà Lý Phương Đức đem hai người con về nước... Sau đó, trong một lần đến thăm ông Hoàng Văn Hoan (chính là Lý Quang Hoa), tôi hoan hỉ báo tin, những tưởng ông ấy sẽ hài lòng:
- Chú ơi, chị Lý Phương Đức về nước rồi...
- "ừm ... bà ấy là người xấu lắm!" .
Tôi giật mình im lặng, cũng không dám hỏi thêm.
Bà Đức chết trong đau khổ và sự nghi kỵ tày trời của những năm tám mươi. Mãi gần đây, năm 2007, Lý Phương Đức mới chính thức được minh oan.
[1]Ba tỉnh đông bắc Trung Hoa, nay là Mãn châu lý (chú thích NXB Phụnữ)
[2]Ông bà Hồ Học Lãm hâm mộ Hiệp sĩ Roland, dũng tướng trong lịch sử Pháp thế kỷ thứ 8, cháu của Hoàng đế La Mã Charlemagne, cũng là nhân vật chính của Trường ca Roland nổi tiếng. Chữ “La” đến từ chữ Roland phiên sang tiếng Hoa (La lan), còn “Mộ” là mến mộ.
[3]“ứng thù” – từcổtiếng Việt, có nghĩa là giao lưu, giữquan hệ.
[4]Theo hồ sơ mật thám Pháp, Đặng Xuân Thanh (cháu ruột nhà cách mạng tiền bối Đặng Thúc Hứa) qua Xiêm đầu năm 1920, cùng với Hồ Tùng Mậu, Lý Phương Thuận, Đặng Quỳnh Anh, phu nhân Ngô Quảng, Ngô Chính Học … (theo Lý Phương Đức nữ chiến sĩ giao thông của Bác Hồ, NXB Công an nhân dân, tr. 96 - 97).
http://vanhoanghean.vn/dat-va-nguoi-xu-nghe6/nguoi-xu-nghe43/hoi-tuong-ve-cha-toi-chi-sy-ho-hoc-lam
(5)
CHƯƠNG V
Hôm đó, dọn cơm trưa xong, mọi người không thấy cha tôi ra ăn cơm bèn hỏi: "Cụ đâu hả chị?"
"Ông đang lên cơn hen, không ăn, bảo mình cứ ăn đi", mẹ tôi đáp.
Tôi vội chạy vào phòng cha, thấy ông ngồi tựa lưng vào tường, thở khò khè nặng nề, trông cặp mắt lờ đờ. Dưới sàn, ấm thuốc bắc đang được sắc với than củi. Trông ông tội lắm. Đứng tần ngần một lúc, chẳng biết làm gì, tôi chạy ra ăn cơm rồi quên mất. Khoảng 3 giờ sực nhớ cha ốm, tôi chạy vào phòng thì không thấy ông đâu nữa, hỏi mẹ, bà cho biết ông đã vào cơ quan làm việc rồi.
"Thầy mệt sao vẫn đi làm?",
"Không làm thì lấy gì mà ăn?".
"Sao không chữa cho thầy khỏi bệnh đi?", "Cũng muốn lắm, nhưng phải uống thuốc thường xuyên...",
"Thì sắc thuốc thường xuyên cho thầy uống có được không hả mẹ?".
"Nhà mình không có tiền, con ạ!".
"Không có tiền?". Hôm tôi xin cha tôi mua cho tôi một đàn piano hay harmonium[1], ông cũng trả lời không có tiền. Tôi rất sửng sốt, trong bụng vẫn đinh ninh cha mẹ mình có nhiều tiền cho nên mới nuôi được nhiều người trong nhà. Nay nghĩ lại mới hiểu hết hoàn cảnh của gia đình tôi những năm tháng ở Nam Kinh.
Lúc đó Nhật đang lăm le đánh Thượng Hải, Nam Kinh. Do đó, cả nhà bàn việc đưa hai mẹ con tôi đi Vu Hồ trước khi xảy ra chiến tranh. Tôi đang nghỉ hè, một buổi sáng dậy, tôi theo mẹ ra sân nhà có mái che, mẹ ngồi trên chõng tre, tôi nằm gối đầu trên đùi bà. Các chú cũng đang ngồi chơi ở đó. Mẹ tôi nói:
"Các ‘cụ’ ơi, e sáng ngày kia đi không được suôn sẻ. Đêm qua tôi chiêm bao lạ lắm... Tôi mơ thấy sáng dậy, mọi người kéo nhau lên ngồi trên một xe ngựa, mới được nửa đường, ông Giai bảo: “đói lắm”, rồi xuống xe đi mua thức ăn ăn sáng. Giai vừa xuống xe thì có còi báo động...".
Chú Lý Quang Hoa cười khùng khục: "Chị thật là dạ trường mộng đa (đêm dài lắm mộng).
Hôm sau là ngày chủ nhật, mẹ tôi cùng các chú soạn những đồ đạc cho vào va ly và hòm gỗ. Tôi chẳng hiểu chuyện gì. Đến sáng thứ hai, chú Trụ đen gọi một xe ngựa to, chất va ly hòm xiểng lên phía sau xe. Rồi chú Lộc và chú Thược vào ngồi trong xe, chú Trụ đen ngồi phía trước cạnh anh xà ích. Vào giữa trung tâm, nơi có nhiều cửa hàng ăn, chú Trụ đen kêu đói và xuống mua thức ăn sáng. Xe ngựa đỗ bên lề đường được dăm mười phút thì có tiếng còi rú lên, nghe rùng rợn như tiếng khóc. (Hàng ngày, cứ đúng 12 giờ trưa thì có tiếng còi tầm, nhưng tiếng còi này hú dồn dập như ai kêu khóc). Mọi người đang khi lúng túng vì không thấy chú Trụ đâu thì cảnh sát đến xua đuổi: "Đi đi! Nhanh! Sắp có máy bay Nhật".
Thế là lạc mất chú Trụ. Xà ích đánh xe chạy nhanh ra ga, mọi người xách đồ đạc vào ga và ngồi trong ga suốt từ sáng đến tối, vì máy bay Nhật lượn suốt ngày trên thành phố Nam Kinh và bắn súng liên thanh hết đợt này đến đợt nọ để khủng bố tinh thần người dân. Chúng không thả bom. Khoảng hai tiếng sau, chú Trụ mới xuất hiện, mang đồ ăn sáng cho mọi người, cũng là bữa ăn cho cả ngày. Gần 7 giờ tối, xe lửa mới chạy. Khoảng 10 giờ đêm mới đến Vu Hồ, nơi đóng quân của anh Lê Tân Dân. Chỉ có chú Trụ đưa hai mẹ con tôi đi, còn chú Lộc, chú Thược quay về nhà. Giấc chiêm bao của mẹ tôi hóa ra thành hiện thực. Chuyện thật xảy ra với các chi tiết y hệt như trong mơ, chỉ khác một chi tiết là chú Trụ mới là người xuống xe ngựa và bị lạc, còn chú Giai hôm đó ở nhà.
Đây quả là một câu chuyện ly kỳ, cho nên tôi vẫn nhớ như in các sự việc xảy ra hôm đó. Có một ông sĩ quan người gầy nhom, tuổi trạc bốn mươi. Suốt buổi, ông ta ngồi chắp tay, mắt nhắm nghiền, miệng khấn lầm rầm gì đó. Nhiều người trong số đàn bà trẻ em sợ quá phát khóc. Còn tôi chưa hiểu "cái chết" là thế nào, nên cũng chẳng biết sợ. Các chú Lộc, chú Thược cũng chờ đến khi đưa mẹ con tôi với hành lý đồ đạc lên xe rồi mới ra về. Vẻ mặt các chú có vẻ băn khoăn suy nghĩ ...
Xuống ga Vu Hồ đèn sáng trưng, cho nên anh Tân Dân và chị Diệc Lan nhanh chóng tìm thấy chúng tôi. Hay người đã chờ suốt từ trưa đến giờ, không hiểu chuyện gì xảy ra.
*
* *
Vu Hồ là một thị trấn cách Nam Kinh một trăm kilômét. Nhưng doanh trại của anh Tân Dân đóng ở vùng nông thôn và lần đầu tiên trong đời, tôi về ở căn nhà gạch của một gia đình nông thôn Trung Hoa.
Từ hôm lên xe lửa về Vu Hồ, việc học tập của tôi bị đảo lộn, tiếp sau đó là những ngày tháng chạy giặc dài dài. Trong dân gian có câu truyền miệng: "Quân đội Nhật và quân đội Quốc dân đảng chạy đua, nhưng bao giờ quân đội Quốc dân đảng cũng thắng cuộc". Vì Nhật chưa đến nơi, quan quân Quốc dân đảng đã bỏ chạy. Thực ra Tưởng vẫn không chủ trương "kháng Nhật" mà chủ trương "An nội - diệt cộng" trước. Đó là bi kịch chín năm kháng chiến của chính phủ Tưởng Giới Thạch. Nhật đánh chiếm Trung Quốc một cách dễ dàng, ngoài các tỉnh miền Hoa Bắc, nay Nhật chiếm các tỉnh Hoa Nam. Có lần mẹ tôi nói: "Cứ kiểu bỏ đất nhiều như vậy, Trung Quốc mất nước đến mấy chục lần so với một nước bé nhỏ như nước ta..."
Về vùng quê, với tôi cái gì cũng lạ, gây hào hứng. Tôi bắt chước bện "dây thảo" (dây bện bằng rơm), ra ngoài đồng bắt châu chấu, chuồn chuồn cùng các bạn, xem nông dân xay lúa giã gạo... Ở đó không có trường học, hàng ngày chị tôi tự viết bài để tôi học. Học chay, không có sách giáo khoa, bữa đực bữa cái, chơi là chính. Có hôm tôi theo anh Tân Dân ra thao trường xem anh cùng bộ đội diễn tập quân sự.
Một hôm mẹ tôi trở về Nam Kinh thăm cha. Khi quay lại Vu Hồ, bà cho biết cha tôi vẫn yếu, bác sĩ bảo bị suy tim. Đi khỏi Long Vương Miếu tôi chỉ băn khoăn về ông đạo sĩ. Mẹ cho biết: “ông tâm sự với mẹ sẽ trở về quê Hồ Nam, mẹ cho ông ba bát gạo và một đồng quốc dân tệ”.
Miệng không dám nói ra, nhưng tôi nghĩ giá như mẹ cho ông ba đồng với mười bát gạo thì hay biết mấy. Đúng là tính "hảo tâm" của một đứa trẻ, không hề biết cuộc sống gia đình tôi đang gặp bước gian nan.
Chúng tôi rời Nam Kinh vào tháng 8, thì khoảng cuối tháng 9 (hình như ngày 29 tháng 9), cha tôi cùng anh Văn, tức Vương Quang về Vu Hồ. Cả nhà, kể cả chú Trụ cũng đến khách sạn gặp cha. Nhìn thấy ông, tôi giật mình vì ông gầy xọp, đôi mắt mệt mỏi.
Trưa hôm đó, chúng tôi ăn cơm ở khách sạn thị trấn. Trong bữa cơm, cha tôi kể chuyện: "Lý Quang Hoa theo một bộ phận của cơ quan về Vũ Hán. Toàn bộ tổng hành dinh dời về Trùng Khánh. Tưởng giao cho mình chức "lưu thủ chủ nhiệm", trông coi mọi việc sau khi dời Bộ Tổng đi. Nay xong việc, cấp trên bảo mình về Trùng Khánh nhận nhiệm vụ mới. Chuyến đi này chưa biết hay dở thế nào... Thược đưa Giai, Lộc về Côn Minh, Văn đi theo mình. Mọi thứ vứt bỏ lại Nam Kinh. Nhật chiếm xong Thượng Hải rồi sẽ đánh vào Nam Kinh thôi".
Sáng sớm hôm sau, cha tôi cùng chú Văn đi Trùng Khánh. Sau bữa cơm trưa, cả nhà chụp ảnh kỷ niệm.
Sau khi cha tôi đi một thời gian ngắn, đơn vị "Khí xa binh đoàn" của Lê Tân Dân cũng di chuyển về hậu phương. Mẹ con tôi được ngồi tầu thủy quân sự của đơn vị anh Tân Dân đi ngược sông Trường Giang. Dọc đường đi qua Hồ Động Đình, một thắng cảnh nổi tiếng của tỉnh Hồ Bắc, truyền thuyết nói ở đó có tiên, hẳn là nơi đó thơ mộng lắm. Về đến Trường Sa - thủ phủ tỉnh Hồ Nam, thì gặp lại cha tôi. Ông đã về đó được một tháng.
Trong bữa cơm gặp mặt, cha kể chuyện: "Mình và Văn đi mất mười ngày mới đến Trùng Khánh, đến ở Chiêu đãi sở của Bộ Quốc phòng chầu chực mất gần hai mươi ngày, nhận được lệnh điều động công tác làm tham mưu đốc quân Trường Sa, nghĩa là dưới trướng của Trương Trị Trung (Trương là thân phụ của Trương Học Lương, nguyên là quân phiệt Bắc Dương bị Tưởng hàng phục)". Nói đoạn, cha tôi mỉm cười.
"Thế nghĩa là họ không cho ông làm ở Bộ Tổng tham mưu nữa? Tại sao nhỉ" - mẹ tôi hỏi.
Cha trả lời: "Khi thấy họ bắt mình giữ chức Lưu thủ chủ nhiệm, mình đã dự đoán họ sẽ không sử dụng mình nữa. Còn tại sao ư? Có thể có nhiều lý do. Trong giai đoạn kháng Nhật, một mặt Tưởng bắt tay với Đảng Cộng sản, nhưng trong thâm tâm Tưởng không muốn, mà vẫn ngấm ngầm tìm cách diệt cộng. Bức thư hiến kế của mình kêu gọi đoàn kết các đảng phái và lực lượng chính trị khác nhau để chống Nhật, có thể rất không hợp "khẩu vị" của Tưởng. Mặt khác, mình là người ngoại quốc, lại không phải đảng viên Quốc dân đảng. Họ thì đang muốn triệt để thanh sạch đội ngũ của họ. Nay thấy sức khỏe mình yếu, tuổi đã cao, cho nên họ không muốn giữ mình lại Bộ Tổng (năm đó là cuối năm 1937, cha tôi 52, 53 tuổi, vừa bị hen vừa bị suy tim) ... Nhưng cũng có thể họ ngờ vực mình điều gì đó ...”
Gần đây đọc hồi ký của Lê Thiết Hùng nói về việc cha tôi thu thập tình báo cho Đảng Cộng sản Trung Quốc, tôi mới hiểu nghĩa câu nói này. Nhưng tôi tin rằng khi đó cả nhà không ai hiểu ý nghĩa của câu đó ngoài Lê Tân Dân.
Cha tôi nói tiếp: “Thật ra, cũng có can hệ gì đâu, mục tiêu đời mình khác họ, vậy làm đâu mà chả như nhau. Vả lại, chỉ là một anh trung tá ...".
"Ông cũng cứng quá, chứ hồi ở Nam Kinh chịu tới gặp Bạch Sùng Hy để ông ta lưu ý cất nhắc cho thì bây giờ cũng lên thượng tá rồi", mẹ tôi xen vào.
Cha tôi cười với vẻ khoan dung: "Thế là bà mới chỉ biết có một chiều thôi... Trong cơ quan đầu não của Tưởng, họ cũng chia năm bè bảy cánh. Bạch, Lý (Lý Tế Thâm) đều không ăn ý hẳn với Tưởng, thậm chí vì vấn đề kháng chiến, thấy Tưởng có thái độ kháng Nhật lừng khừng, Lý từng có ý định lật đổ Tưởng. Họ từng muốn lôi kéo cả mình nữa, nhưng mình chẳng ngả sang phe nào cả. Mình cứ trước sau một mực: Chí hướng của tôi là cứu nước mình, mong các ông sau khi ổn định quốc nội sẽ thực hiện di chí của Tôn Trung Sơn là "ủng hộ các nước nhược tiểu" mà giúp Việt Nam đánh đuổi Pháp... Nay mình muốn thăng quan tiến chức bằng cách nhờ vả họ, bà phải hiểu là chẳng ai chịu cho không ai cái gì đâu...".
Anh Tân Dân phụ họa: "Thầy nói chí lý, ngay trong binh đoàn của con, trên dưới đâu có hoàn toàn đồng lòng nhất trí với nhau. Họ cũng có thái độ lôi kéo con, còn con làm bộ ngù ngờ, không để ý đến vấn đề chính trị, chỉ chú tâm vào công tác quân sự thôi"...
Câu chuyện hôm đó thật rôm rả. Thời điểm đó tôi mới bước sang tuổi thứ tám. Chẳng qua vì câu chuyện liên quan đến vấn đề thu nhập của gia đình, nhắc đến Bạch Sùng Hy, vị tướng nổi tiếng của Quốc dân đảng, cho nên tôi mới để ý nghe và quan tâm ghi nhớ. Sau này tôi có hỏi lại mẹ câu chuyện này. Chiến tranh liên quan đến lạm phát, đến giá cả thị trường, mà mẹ tôi hay kêu ca sau những lần đi chợ về.
Mẹ và tôi theo anh chị về ở Ích Dương. Ở Trường Sa chỉ còn có cha tôi, chú Văn và chú Lý Quang Hoa (thời kỳ này chú Hoa bỏ công việc ở Vũ Hán về với cha tôi. Gần đây đọc "Giọt nước và biển cả" tôi mới rõ lý do bỏ việc của ông ấy là do Lý Quang Hoa và chú Văn, bí danh khác là Vương Quang, được tổ chức dự kiến đưa đi học ở Liên Xô). Ít lâu sau, mẹ tôi về Trường Sa chữa bệnh.
Một lần chị tôi đi Trường Sa về kể chuyện: "Thầy bảo: Diệc Lan này, mẹ con độ này là lạ thế nào ấy. Khi nào bà ấy cũng nghĩ có người muốn hãm hại mình...". Nghĩa là bệnh tâm thần phân lập của bà nặng hơn trước. Nhưng cả nhà không ai hiểu điều đó, không để ý chữa bệnh dứt điểm cho bà, vả lại chiến tranh, đắt đỏ, sự nâng lương chẳng theo kịp sự lạm phát. Nay nghĩ lại, tôi hiểu rằng lúc đó gia đình tôi không còn đủ khả năng chữa bệnh cho mẹ tôi, đặc biệt là cha tôi.
Khi ở Trường Sa, có một người đến với gia đình, tên là Trần Báo, người thấp lùn, nhìn kỹ hao hao giống mẹ tôi. Đó là cậu ruột tôi, tên thật là Ngô Chính Học. Cậu không ở hẳn với gia đình tôi. Trước cậu hoạt động ở Xiêm, nay vì công việc sang Trung Quốc và cũng rất thạo tiếng Trung Quốc. Về sau tôi được biết chú Lý Quang Hoa rất ghét cậu tôi, cũng như ông đã rất ghét chú Đặng Xuân Thanh. Lý Quang Hoa gọi cả hai người đó là đặc vụ Quốc dân đảng Trung Quốc (?)[2] Nay đọc "Giọt nước biển cả" cũng thấy ông nói hai người không ra gì.
Sau khi cậu tôi đến Trường Sa, tôi thấy chị tôi thỉnh thoảng lại về Trường Sa có việc. Đến khoảng tháng 2, tháng 3 năm 1938, nghĩa là sau Tết âm lịch, cả nhà kéo nhau ra khách sạn ăn cơm. Mẹ nói với tôi chị sẽ đi học xa, đây là bữa cơm tiễn chị và chú Cao Hồng Lĩnh[3]. Bữa cơm có năm người của gia đình và các chú Văn, chú Trụ, chú Lý Quang Hoa, cậu Trần Báo và chú Cao Hồng Lĩnh, tất cả khoảng mười người. Gần cuối bữa ăn, cậu Trần Báo bảo: "Đến giờ rồi, chúng ta đi thôi!". Chị tôi và anh Tân Dân đứng phắt dậy, chú Cao và mọi người cùng đứng dậy theo. Nghĩ đến việc phải xa chị, tôi oà lên khóc nức nở, khiến chị tôi bịn rịn ôm tôi. Cậu Báo giục, chị đành buông tay ra, tôi lại càng khóc to hơn... Mãi về sau, tôi mới biết chị và chú Cao đi học ở vùng Thiểm Bắc, do chính cậu Trần Báo tôi giới thiệu hai người với cơ quan liên lạc của Đảng Cộng sản Trung Quốc (đó là bộ phận bí mật của Đảng Cộng sản Trung Quốc chuyên tổ chức cho các thanh niên tiến bộ đi học chính trị và quân sự ở khu đỏ).
Chị tôi học ở trường Thiểm Công (trường huấn luyện chính trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc). Còn ông Cao Hồng Lãnh học trường Kháng Đại (đại học kháng chiến). Hai trường ở không quá xa nhau.
Chị đi học có một năm thôi, nhưng vì tôi nhớ chị, nên cảm thấy lâu lắm. Nhiều khi ở vùng quê, ngắm những hòn núi xa xa thấy cây lay động trong gió, tưởng tượng chị tôi đang vượt qua núi đó để về với tôi, tôi thổn thức rên lên: "Chị ơi, mau về với em"...
Một thời gian sau khi chị tôi đi học, chẳng hiểu cha mẹ và cậu bàn bạc thế nào, cậu đưa hai mẹ con tôi đi Quảng Châu. Cha và chú Hoa, chú Văn ở Trường Sa, anh Tân Dân vẫn ở Ích Dương với đơn vị.
Chúng tôi đi bằng xe lửa. Dọc đường mẹ thủ thỉ với tôi: "Quảng Châu là một thành phố to rộng, có nhà cao đến 11, 12 tầng. Người đông, đường phố rắc rối, lại có nhiều mẹ mìn. Đến Quảng Châu, con đừng đi lung tung, đừng tin ai ngoài đường, nếu chẳng may lạc đường thì con đến tìm công an". Bà sợ tôi quên, nói đi nói lại nhiều lần.
Tôi hỏi: "Mình đi Quảng Châu làm gì hả mẹ?"
"Vì chạy giặc Nhật liên miên, không có chỗ ở cố định, ảnh hưởng việc học của con. Thầy mẹ và cậu bàn nhau đưa con đến ở Hồng Kông để ổn định việc học hành. Hàng tháng, thầy sẽ gửi tiền qua bưu điện cho mẹ con mình".
Viễn cảnh này nghe có vẻ thú vị. Một năm qua, từ 1937 đến 1938, tôi chơi suốt, chẳng được học hành gì. Đến Quảng Châu (thời đó đứng sau Thượng Hải và Thiên Tân), tôi thấy đúng là một thành phố hiện đại, đường phố rộng, các nhà gạch từ hai tầng trở lên xây theo kiểu phương Tây (Trường Sa đa số là nhà một tầng, xây kiểu cổ). Có một số khách sạn hiện đại cao hơn mười tầng, tôi không nhớ chính xác số tầng. Tầng dưới cùng là hầm bê tông cốt sắt. Mỗi lần báo động, nhân dân quanh vùng đến đó trú ẩn. Chỗ ở của gia đình tôi trong "Hội quán Hoa kiều" (nghĩa là cậu tôi có mối quan hệ với các "hội quán" như thế ở Quảng Châu hay ở Hồng Kông...). Chúng tôi ở một phòng tầng hai, tầng một là trường tiểu học Tế Thời. Chúng tôi đến Quảng Châu cuối tháng 8, thì đầu tháng 9 tôi vào học lớp ba, nghĩa là nhảy cóc. Không phải vì tôi học giỏi, mà là bị ép học theo tuổi. Về mặt chữ, tôi vẫn theo kịp, vì ở nhà tôi vẫn được dạy chữ, nhưng toán lại là một vấn đề khá hóc búa, vì tôi chưa biết làm các phép tính nhân và chia. Do đó tôi học không được hào hứng lắm, nhưng vẫn giữ nề nếp ngày hai buổi đến trường. Mặt khác, còn có một khó khăn nữa. Đó là ở đây học bằng tiếng Quảng Đông, thầy giảng trên lớp tôi chẳng hiểu gì. Do đó cái sự học của tôi ngày càng ù cạc, lơ mơ hơn. Trong số bạn học, chỉ những ai biết tiếng phổ thông mới chơi với tôi, vì tôi không biết nói tiếng Quảng Đông. Cô bạn ngồi cùng bàn rất quý tôi, chơi và giúp tôi đọc bài "Quốc văn" bằng tiếng Quảng Đông.
Tôi phàn nàn với mẹ, bà bảo: Không sao, đây là cơ hội để tập nói tiếng Quảng Đông sau này đến Hồng Kông học chính thức, sẽ dễ dàng hơn. Tôi hỏi: Khi nào mình đi Hồng Kông? Bà trả lời còn chờ. Chờ ai? Tại sao phải chờ? Thì không thấy bà trả lời.
Một buổi trưa, cô bạn gái đến rủ tôi đi mua bút chì. Nhưng khi đó đã 12 giờ 20 rồi, 1 giờ đúng thì lên lớp. Tôi tần ngần không muốn đi, sợ không kịp về học, bạn đó khẩn khoản rủ đi cùng cho vui, hứa không trễ giờ học. Tôi nể quá đi theo. Trường Tế Thời tiểu học ở trong một ngõ hẻm rất dài, ra cổng rẽ trái ra phố lớn, trước mặt là "Ái Quần Lữ Xã", tôi sẽ dễ nhận ra đường. Cô bạn dẫn tôi rẽ phải, đi ngược chiều vào một lộ trình ngoắt ngoéo, còn tôi rất cố nhớ đường. Chúng tôi ngoặt sang phải, ngoặt sang trái rồi đến một phố lớn rẽ phía trái... Đi rất xa và lâu, cô bạn vẫn chưa mua được cái bút vừa ý. Nhìn lên đồng hồ treo tường của cửa hàng thì đã 1 giờ kém 10, tôi đòi về, cô bạn động viên tôi đi tiếp, nhưng tôi lắc đầu. "Thế cậu có nhớ đường không?", bạn tôi hỏi. Tần ngần một lúc tôi trả lời có. Vì mẹ tôi vẫn nói tôi là đứa trẻ nhớ đường giỏi, vả lại khi đi mình đã quan sát cẩn thận rồi. Thế là hai đứa chia tay.
Tôi quay về đường cũ theo trí nhớ, nghĩa là khi đi rẽ trái thì khi về rẽ phải, khi đi rẽ phải thì bây giờ rẽ trái. Rẽ đi, rẽ lại, đi mãi chẳng tìm thấy Hội quán Hoa kiều, cũng là Tiểu học Tế Thời. Tôi bắt đầu hoảng, trở về đường cũ, bụng bảo dạ, có lẽ có nhiều ngõ, mình rẽ nhầm ngõ chăng, thế là rẽ vào một ngõ khác, rồi lại một ngõ khác nữa. Loanh quanh càng đi càng lạc lung tung, ngõ nào cũng không tìm thấy nhà mình, tôi bắt đầu ứa nước mắt, mồm lẩm bẩm: 'Trời phạt mình", vì tôi ở nhà hay cãi mẹ, phạm tội bất hiếu. Khi đó tôi đi trên một phố lớn, thấy người lớn kẻ đi người lại tấp nập, nhưng chẳng biết ai ngay ai gian, cho nên không dám hỏi. Một ông ăn mặc sang trọng, đeo kính, đội mũ phớt đi ngược phía tôi, thấy tôi khóc, ông ấy hỏi:"Tiểu bằng hữu (cô bạn nhỏ), sao em khóc?". Thần kinh tôi căng thẳng, nghĩ thầm "ăn mặc sang thế, chắc gì đã là người tử tế!", tôi lừ mắt nhìn ông ta. Chắc rằng bộ dạng một bé gái 8 tuổi, nước mắt đầm đìa, mà lại lừ mắt ra dáng người lớn, trông buồn cười lắm. Ông ta bật cười rồi bỏ đi. Tôi đi mãi đến một ngã tư, thấy có công an đứng ở bục giữa đường, tôi đành đến tìm công an như mẹ đã dặn. Khốn nỗi, tôi lại nói nhầm tên trường là "Trung Sơn tiểu học". Một anh công an khác thấy tôi nói tiếng phổ thông biết là không phải người Quảng Châu, anh tỏ vẻ thông cảm, đích thân dẫn tôi đến trường "Trung Sơn tiểu học". Tôi thấy lạ hoắc, lắc đầu. Anh ta bảo "Đây chính là Trung Sơn tiểu học". Tôi lắc đầu quầy quậy, và cũng chẳng nhớ tên trường mình đang học là gì nữa. Anh công an đó đành đưa tôi quay về bục công an, trao đổi bằng tiếng Quảng Đông với anh công an kia rồi dẫn tôi đi một quãng đường xa về đồn công an khu phố. Đúng lúc đó, có còi báo động. Một nữ công an rót cốc nước lọc cho tôi uống, bảo: "Đang báo động, em cứ ở đây, rồi các anh chị sẽ tìm cách đưa em về nhà. Đừng sợ nhé". Tất nhiên, khi vào đồn công an, tôi thấy vững dạ, nhưng không khỏi băn khoăn vì không biết khi nào mới gặp được mẹ và cậu.
Mãi đến hơn 5 giờ chiều, tôi mới thấy một công an viên dẫn mẹ, cậu và một chú Hoa kiều[4] đến nhận tôi. Nỗi sung sướng khi nhìn thấy mẹ trào lên ngực, làm tôi muốn nghẹt thở. Sau đó, cậu tôi và chú Hoa kiều khai báo, ký tên v.v... rồi đưa tôi về nhà.
Khi cô bạn về trường không thấy tôi đâu, đoán chắc tôi bị lạc đường, nó báo với cô giáo chủ nhiệm và mẹ tôi. Mẹ, cậu và chú Hoa kiều gọi điện đến các đồn công an hỏi trẻ lạc, gặp đúng lúc có báo động, mãi sau mới gọi được tới đồn công an nơi tôi đang trú chân. Rồi mọi người kéo nhau đến xem có phải đúng Mộ La đang ngồi chờ ở đồn công an không. Khi chúng tôi về tới nhà, trời đã sẩm tối. Thật là một kỷ niệm khó quên...
Chúng tôi ở Quảng Châu vừa được một tháng, tức là vào khoảng cuối tháng 9, tình hình chiến sự rất phức tạp, Nhật sắp đánh tới Quảng Châu. Không hiểu vì lý do gì, chúng tôi chưa thể đi Hồng Kông được. Mọi người vẫn cho rằng vì Hồng Kông là tô giới Anh, chắc Nhật sẽ không đánh Hồng Kông. Vì vậy cha mẹ muốn đưa tôi về học ở Hồng Kông. Nhưng lúc bấy giờ cậu tôi với các chú Hoa kiều lại đang mua vé cho chúng tôi trở lại Trường Sa, mà không sao mua ngay được. Rồi một buổi chiều, khoảng 4, 5 giờ, cậu và hai chú Hoa kiều vác hành lý đồ đạc để đưa mẹ con tôi ra ga. Đi được khoảng ba trăm mét, thấy có tiếng gọi đuổi sau lưng, ngoảnh lại thấy chị Trầm Huệ Phượng chạy tới đưa bức thư của chị tôi. Khi chia tay, chị cứ rơm rớm nước mắt. Mẹ tôi động lòng trắc ẩn: "A Phượng, con có muốn đi với chúng ta không? Nếu ta có cơm con ăn cơm, ta có cháo con ăn cháo, dám cùng cam cộng khổ, không nề hoạn nạn thì mày đi với tao". Chị Phượng gật đầu lia lịa, rồi chạy về nhà xách một va ly mây cầm tay đi theo chúng tôi ra ga. Năm ấy chị Phượng mười bảy tuổi. Dọc đường, cậu phàn nàn: "Mình còn chưa biết nắng mưa ra sao, còn chưa biết có lo được cho mình hay không, chị lại còn đèo bòng cả người dưng nước lã...". Mẹ tôi nói: "Chị nó bỏ nó về Hồng Kông một mình, nó về ngoại thành ở với họ hàng xa, mai kia giặc Nhật vào Quảng Châu, con gái một thân một mình, sẽ ra sao?".
"Nói như chị thì phải thương hết tất cả những đứa con gái khác có số phận như nó, liệu chị có làm được không?".
Mẹ tôi im lặng. Về đến Trường Sa, chú Lý Quang Hoa cũng ca cẩm như cậu tôi, nhưng cha tôi cũng im lặng. Thế là chị Trầm Huệ Phượng, một cô gái Trung Quốc, sống giữa đại gia đình ngoại kiều - những người Việt Nam, bằng lương của cha tôi. Cảm kích tấm lòng của ông bà, chị gọi cha mẹ tôi bằng "papa, mama", lấy tên Việt là Hồ Huệ Quần. Chị Phượng là người tình nghĩa thủy chung.
Về Trường Sa rồi cũng chẳng yên. Bạn của anh Lê Tân Dân đưa chú Quốc Trụ, mẹ, chị Phượng và tôi về Hoàng Bình, một thị trấn gần tỉnh Quý Châu. Về đó một thời gian, vì ốm, cha tôi được coi như bệnh binh, cơ quan cho nghỉ công việc đi theo gia đình về Hoàng Bình, có cả cậu tôi, chú Hoa và chú Văn cùng đi. Chú Trụ ở trong đơn vị bộ đội, ngày ngày về nhà ăn cơm với gia đình. Nhưng cuối năm 1938, gia đình tôi về hẳn thành phố Quý Dương, là thủ phủ của tỉnh Quý Châu.
*
* *
Quý Dương là một thành phố thanh bình, người ở thưa thớt. Ở đó có một ông Việt kiều họ Đỗ từ Vân Nam về Quý Dương lập nghiệp. Ông Đỗ sở hữu một ngôi nhà to rộng mái ngói một tầng trong một ngõ vắng. Ở ngoài phố, ông có một cửa hàng to bán các loại bánh kẹo do ông sản xuất, người bán hàng kiêm kế toán chính là chị Lý Phương Thuận. Chị làm việc và sống ngay trong cửa hàng đó, nuôi hai con gái nhỏ Bùi Lệ Tân và Bùi Lệ Lan. Còn chồng chị, Bùi Hải Thiệu, làm việc trong cơ quan quân nhu của một đơn vị Quốc dân đảng Trung Quốc, thỉnh thoảng mới về thăm vợ con. Anh chị còn một con gái đầu lòng nữa, nhưng đã mất khi họ rời Nam Kinh.
Ông Đỗ không hoạt động chính trị, ông chỉ là một thương nhân trọng nghĩa khí. Gia đình vợ chồng ông Vũ Hồng Khanh thuê hai phòng của ông Đỗ. Ngoài ra, hai ông bà thuê một ngôi nhà mặt phố hai tầng, mở cửa hàng giặt khô là hơi và khâu mạng hàng len dạ. Chú Trụ vốn quen ông Đỗ ở Côn Minh, đến liên hệ xin ở nhờ. Ông Đỗ được nhiều người truyền tụng về tính hào hiệp của cụ Hồ Học Lãm, người thường nuôi dưỡng đồng bào Việt khi còn ở Nam Kinh. Nay thấy gia đình tôi chạy giặc Nhật đến xin ở nhờ một thời gian, ông Đỗ vui long nhận lời ngay. Được biết cụ Hồ Học Lãm mắc bệnh nặng, gia đình gặp khó khăn, nên ông Đỗ cho ở trọ mà không lấy tiền thuê.
Về đây một thời gian ngắn, chị Trầm Huệ Phượng xin vào một trường đào tạo hộ lý. Chị Phượng bắt đầu thoát ly khỏi gia đình, vì biết kinh tế cha mẹ tôi có khó khăn. Sau đó, chị vào làm trong một bệnh viện, năm đó chị 18 tuổi. Trước khi đi học chị nói chuyện với mẹ tôi: "Nay con cũng mười tám tuổi rồi, cũng phải học một nghề để tự lập, papa, mama già rồi, không thể nuôi con mãi được". Sống với chúng tôi khoảng một năm, quen mấy sĩ quan Quốc dân đảng tiến bộ, Trầm Huệ Phượng trở nên tự tin hẳn. Thời gian chị đi học, cha tôi đang trên đường theo quân y viện về Quý Dương với sự hộ tống của cậu tôi, chú Lý Quang Hoa và chú Văn.
Vì quân y viện cũng có khó khăn về xe cộ, các bệnh nhân và gia đình di chuyển dần theo từng địa điểm đóng quân của bệnh viện, nên mấy tháng sau cha tôi mới về đến nơi, vào nằm trong bệnh viện Quý Dương. Các chú Hoa, Văn, và cậu tôi đến báo tin. Chú Trụ đưa mẹ và tôi đến thăm. Trông cha tôi rất tiều tụy, bụng to như đàn bà chửa, nhưng chân tay khẳng khiu, ngồi trên giường gãi sồn sột, kêu ca rận rệp hành hạ ông. Hôm sau mẹ tôi và chú Trụ mang áo quần sạch đến cho cha tôi thay, còn toàn bộ chăn màn áo quần cá nhân đem về nhà. Chú Trụ mượn chảo gang to, đun nước sôi nhúng. Lúc đó mùa đông cuối 1938, cha tôi mặc áo dầy, cho nên rận rệp làm ổ trong áo. Tuy có đỡ phần nào, nhưng giường gỗ mới là ổ rận rệp, hết lớp này đến lớp khác tiếp tục hành hạ cha tôi. Hàng ngày, chú Trụ đưa đồ ăn do mẹ tôi nấu giàu dinh dưỡng hơn vào cho cha tôi.
Bác sĩ gặp gia đình, thông báo "Hồ Học Lãm tiên sinh suy tim nặng, gan cũng yếu, do bệnh hen lâu năm gây ra. Nay các dinh dưỡng không chuyển hóa thành máu được, nước tích trong bụng, gây khó thở. Bây giờ chúng tôi mở một mũi nhỏ để hút nước trong bụng ra. Cứ 3 tháng phải tiểu phẫu thuật một lần. Sau khi tiểu phẫu thuật xong, tiên sinh có thể về gia đình tĩnh dưỡng. Tránh hoạt động và xúc động thái quá, chỉ nên nằm yên trên giường bệnh. ba tháng sau đến khám lại và điều trị...".
Sau mỗi bận tiểu phẫu thuật, cha tôi mệt mất một tuần nằm bất động. Về nhà, chú Trụ và chú Văn nấu nước lá, tắm rửa sạch sẽ cho cha tôi, thay toàn bộ áo quần chăn màn. Nửa tháng sau, tinh thần và sức khỏe của cha tôi khá lên. Mẹ tôi cố sắc vài chục thang thuốc Bắc cho cha tôi uống. Là trẻ con nhưng tôi rất có thiện cảm với mùi thuốc Bắc vì nó thơm thơm, nhưng tôi sợ phải uống. Thấy cha chịu khó uống, tôi lấy làm phục lắm.
Sau khi các chú Hoa, Văn và cậu tôi lần lượt rời Quý Dương. Gia đình tôi bốn người, kể cả chú Trụ, chuyển sang ăn cơm chung với gia đình ông Vũ Hồng Khanh (thực ra Lý Quang Hoa không hề xuất hiện trong nhà tôi khi tới cha mẹ tôi chuyển tới ở cạnh gia đình Vũ Hồng Khanh ). Gia đình này có cô em vợ chuyên lo bếp núc, do đó chúng tôi đóng tiền ăn chung. Các bữa ăn cũng tươm tất, ngon lành, mỗi bữa cha tôi ăn được hai lưng bát với ít món ăn thêm để bồi dưỡng sức khỏe.
Quý Dương như một đại hậu phương, mọi người có thể ăn ở yên ổn hơn, và tôi đi học đều ngày hai buổi. Bây giờ tôi cũng không nhớ mình lúc ấy học lớp mấy, nói chung học lớp thấp hơn so với tuổi, vì tôi đã bắt đầu chín tuổi, nay tính lại có lẽ là học lớp hai chăng? Nghĩa là, tiện lớp nào vào học lớp ấy.
Khoảng tháng 3 năm 1939, một chiều đi học về, tôi không thấy cha mẹ đâu. Hỏi thím Vũ Hồng Khanh, bà bảo: "Thím không biết, chắc là đi chơi đâu đó. Thôi đến giờ ăn cơm rồi, cháu cứ ăn đi..." Tôi òa lên khóc nức nở, nhất định không chịu ăn uống gì. Bà Khanh hết lời khuyên giải không được. Bà bưng cơm vào phòng ngủ cho tôi, tôi cũng nhất quyết không ăn, chỉ gào khóc ầm ĩ, và trong bụng lo thực sự. Nhưng khóc mãi cũng mệt, tôi ngủ thiếp đi. Đang ngủ say nghe tiếng nựng của mẹ, tôi ôm choàng lấy mẹ vừa mừng vừa tủi lại khóc òa lên. Bà Khanh kể chuyện lại với mẹ tôi, vừa kể ôm bụng cười: "Cháu vừa khóc vừa nói: ‘Trời ơi là trời, có con chị thì bỏ đi xa; bây giờ chỉ còn con mẹ và thằng bố cũng bỏ đi nốt, cháu biết ở với ai bây giờ?’...".
Mẹ tôi cười theo làm tôi xấu hổ. Bà nói: "Ông Lãm thấy người khỏe hơn nên bảo tôi đưa ra ngoài đi cắt tóc, vừa hay tôi và ông gặp hai vợ chồng người bạn Trung Quốc chơi thân nhau ở Nam Kinh, thế là bốn người rủ nhau đi ăn và trò chuyện", "Thì em cũng bảo Mộ La là thầy mẹ cháu đi chơi một lúc rồi sẽ về, nhưng cháu nhất định không tin và bỏ ăn....", bà Khanh nói.
Chiều hôm sau, cơm tối xong, mẹ dắt tôi ra phố vào một quán trọ và gõ cửa một phòng. Tôi sửng sốt thấy chú Liễu và chú Thược ra mở cửa đón chúng tôi vào. Mẹ tôi dặn: "Bây giờ chú Liễu gọi là chú Phùng Chí Kiên nhá. Về nhà cấm không được cho ai biết mình gặp hai chú nhá". Hai chú cho tôi một thỏi sô cô la. Câu chuyện của mẹ tôi làm tôi không hiểu đầu cua tai nheo thế nào, chỉ thấy bà nhắc đi nhắc lại: "Ông Lãm bị suy tim nặng, sống chết thế nào không lường được. Ông ấy nhớ Diệc Lan lắm, nhưng là đàn ông cho nên ông không hé một lời nào với các anh, nhưng tôi biết tâm sự của ông ấy. Hai vợ chồng chúng tôi đã nói rồi, Diệc Lan là người của các anh, các anh sử dụng nó thế nào tùy yêu cầu của cách mạng, chúng tôi quyết không dám giữ, chỉ xin các anh một điều, trước khi nó đi, cho nó về thăm cha một lần...". Anh Liễu cười: "Diệc Lan vẫn ở Lão Hà Khẩu với Lê Tân Dân, đã về Côn Minh đâu? Đường về Côn Minh phải đi qua Quý Dương, Diệc Lan thể nào cũng ghé thăm gia đình, chị cứ yên tâm đi...". Nhưng mẹ tôi nhất quyết không tin lời chú Phùng Chí Kiên. Mẹ cứ nói đi nói lại, chú Kiên cứ thanh minh hoài, còn tôi cứ suy nghĩ, chị sẽ đi đâu, làm gì, tại sao lại không về thăm nhà được, để mẹ tôi cứ phải nhắc các chú điều đó?
Ít lâu sau, mẹ tôi mới kể cho tôi nghe chuyện hôm tôi khóc nức nở vì không thấy cha mẹ đâu. Chiều hôm đó khoảng 3 giờ, cha tôi nằm ốm lâu ngày quá, nay thấy khỏe khỏe hơn một chút, bèn đi thật chậm rãi ra phố cắt tóc, sau đó đứng đọc các báo trên bảng ở hè phố (ở nhà vẫn đặt nhật báo, cha tôi vẫn không bỏ thói quen đọc báo. Trung Quốc hay dựng bảng gỗ to trên hè phố, trên đó hàng ngày dán các loại báo lớn để nhân dân có điều kiện tìm hiểu tin tức thời sự hàng ngày). Bỗng thấy có người vỗ vai sau lưng, ngoảnh lại thấy chú Thược (Đặng Văn Cáp) và chú Phùng Chí Kiên. Cha tôi vô cùng mừng rỡ.
Hai chú hỏi cha tôi hiện ở đâu? Ông trả lời: "Nơi tôi ở các anh không đến được, vợ chồng Vũ Hồng Khanh đang ở đó. Thôi chúng mình kiếm một quán ăn vừa ăn vừa nói chuyện". Khi ba người đang đi kiếm quán ăn thì vừa gặp mẹ tôi ở đằng kia đi lại, do đó bốn người kéo nhau vào một quán bình dân ăn cơm, trò chuyện với nhau (chuyện gì thì mẹ tôi không kể). Mãi đến 8 giờ tối mới chia tay nhau, do đó cha mẹ tôi về nhà muộn.
Từ lâu, hồi còn ở Nam Kinh, tôi được nghe tên Nghiêm Kế Tổ, Vũ Hồng Khanh, nghe chuyện bọn Quốc dân đảng Việt Nam ở Côn Minh làm nhiều xằng bậy, rằng họ rất ghét cộng sản. Do đó tôi hiểu ngay chuyện cha mẹ tôi muốn bảo vệ ông Phùng Chí Kiên và ông Thược, còn câu chuyện gặp bạn Trung Quốc là để đánh lạc hướng gia đình Vũ Hồng Khanh.
Rồi mẹ tôi nói chuyện các chú viết thư gọi chị tôi và chú Cao Hồng Lĩnh về Côn Minh nhận nhiệm vụ. Chị tôi viết thư về cho hai ông bà rằng khoảng đầu năm 1939, họ sẽ rời Lão Hà Khẩu (nơi đóng quân của anh Tân Dân) về Côn Minh, thể nào cũng sẽ đi qua Quý Dương, do đó, chị hẹn sẽ về thăm nhà ít hôm. Nay đã tháng 3 rồi mà chẳng thấy chị đâu. Mẹ tôi hay nằm mê thấy có người báo "muốn gặp con gái thì đến các nhà trọ mà tìm...". Do đó, bà kể, hầu như ngày nào bà cũng đến các nhà trọ loại tầm tầm để tìm, mà không gặp. Mẹ tôi e tổ chức không cho chị tôi về thăm nhà, sợ gặp cha ốm rồi bịn rịn, không ra đi được. Mẹ tôi là con người hết sức nhạy cảm, lắm khi nhạy cảm đến mức tâm thần. Thực ra bà cũng đã mắc chứng tâm thần phân lập nhẹ rồi. Nhưng sau những giấc chiêm bao, bà suy đoán về chúng, lắm khi làm mọi người giật mình vì suy luận có lý của bà.
Khi gặp cha mẹ tôi, chú Phùng Chí Kiên cho biết họ đang ở Côn Minh, đến Quý Dương “đón một đồng chí” nhưng không gặp. Phùng Chí Kiên dặn hai ông bà rằng sau này có việc gì cần, thì gặp Trịnh Đông Hải hiện ở Côn Minh[5].
Sau khi ông Phùng Chí Kiên về Côn Minh được vài ba tháng gì đó (khoảng cuối tháng 6 đầu tháng 7, vì lúc ấy tôi bắt đầu nghỉ hè) cha tôi nhận được thư của ông Trương Bội Công. Tôi còn nhớ như in, khi mẹ và tôi ra phố trở về nhà, hai mẹ con đang định leo lên gác xép thì cha tôi gọi giật lại: "Bà Hồ ơi, bà đến đây, có bức thư lạ lắm".
Mẹ tôi quay lại ngồi bên giường cha tôi, còn tôi đi theo, và đứng cạnh mẹ. "Trương Bội Công rủ tôi về Quảng Tây cùng hoạt động cách mạng, bà đọc thư đi", cha tôi thông báo.
Sau khi mẹ đọc xong thư, cha tôi nói tiếp: "Như bà vẫn biết, mấy chục năm qua Trương Bội Công tránh gặp mặt các anh em Việt Nam yêu nước, không liên hệ với bất cứ ai. Ông ta vào Quốc dân đảng Trung Quốc, mới được thăng thiếu tướng … Nay bỗng giở giọng yêu nước thắm thiết, kêu gọi mình về Quảng Tây cùng hoạt động cứu nước, âu cũng là chuyện lạ!",
"Thế ông tính sao?"
"Mình viết thư thăm dò cái đã, xem sao".
Ít lâu sau cha tôi nhận được thư trả lời. Đại ý bức thư là Tư lệnh trưởng Đệ tứ chiến khu Trương Phát Khuê yêu cầu Trương Bội Công tập hợp lực lượng thanh niên Việt Nam yêu nước để tổ chức thành đội ngũ. Một lần nữa,Trương Bội Công khẩn khoản mời cha tôi về cùng hoạt động.
"Bà nghĩ sao?". Cha tôi hỏi.
Mẹ tôi trả lời: "Ở hải ngoại ai cũng biết tiếng, cũng quý mến Hồ Học Lãm. Trương Bội Công hẳn muốn lợi dụng uy tín ông ..."
Cha tôi phân tích: "Hẳn là Tưởng Giới Thạch đã có chỉ thị cho Trương Phát Khuê về việc này. Báo chí không phản ánh hết mọi tình hình thời sự. Chắc thế giới đã có biến động gì đây, nên Tưởng đã bắt đầu xúc tiến kế hoạch Hoa quân nhập Việt. Toan tính chuyện này, thế nào Quốc dân đảng cũng phải dự trù kinh phí. Trương Bội Công nhân cơ hội này vừa đầu cơ chính trị, vừa kiếm chác cho riêng mình. Điều quan trọng đừng để họ nắm lực lượng thanh niên yêu nước của ta ...".
"Thế ông tính làm sao?", mẹ tôi hỏi.
Cha tôi : "Phải viết thư báo ngay tin này cho Phùng Chí Kiên, và đề nghị các anh chuyển địa bàn hoạt động về Quảng Tây. Tỉnh trưởng kiêm Tư lệnh trưởng Vân Nam là Long Vân, là quân phiệt cũ, rất phản động. Ngoài mặt hắn là quân dưới trướng của Tưởng, nhưng vẫn ngấm ngầm chống Tưởng. Long Vân chưa bao giờ tỏ ra có thiện cảm với cách mạng Việt Nam. Đành rằng tuyến Côn Minh - Lào Cai có đường sắt, thuận đường đi lối lại, nhưng không lợi về chính trị. Với tình hình này, các anh về Quảng Tây có lẽ sẽ có lợi hơn... Bà có muốn gặp Diệc Lan không? Có chứ gì? Vậy nhân việc đưa thư tôi cho anh Phùng Chí Kiên, bà về Côn Minh một chuyến, may ra sẽ gặp Diệc Lan... Tôi sẽ bảo Trụ đưa hai mẹ con về Côn Minh. Tôi ở đây vẫn trông cậy được vào vợ chồng Vũ Hồng Khanh giúp đỡ cơ mà".
Thế là ba chúng tôi về Côn Minh vào khoảng đầu tháng 9, nghĩa là tôi lại phải bỏ học một dạo. Chú Trụ đưa mẹ tôi và tôi tới ở cùng nhà với vợ chồng chú Đỗ Đăng Trình và cô Hiền.
Một buổi chiều sau bữa cơm tối, chú Trụ nói điều gì với mẹ tôi. Bà dắt tôi ra đầu phố, dưới bóng đèn lờ mờ gặp một người đàn ông cao lớn, nói to nhưng trầm ấm, đó là chú Trịnh Đông Hải (Vũ Anh). Hồi thành lập Mặt trận Việt Minh năm 1936, chú Trịnh Đông Hải có về nhà tôi ở một thời gian ngắn. Có sẵn hai xe kéo, ba người chúng tôi ngồi xe vào một phố giữa trung tâm Côn Minh, kẻ qua người lại đông đúc và huyên náo. Sau khi xuống xe, lại đi một quãng đường xa rồi chú Hải đưa hai mẹ con chúng tôi vào một quán trà đông khách. Vào sau một bàn thấy chú Phùng Chí Kiên đã ngồi sẵn, chúng tôi ngồi xuống uống trà trò chuyện. Mẹ tôi kín đáo đưa bức thư của cha tôi cho chú Kiên rồi hàn huyên, rồi lại nhắc đến chuyện muốn gặp mặt chị Diệc Lan. Còn chú Kiên vẫn nhất nhất thanh minh rằng Diệc Lan vẫn còn ở Lão Hà Khẩu với Lê Tân Dân...
Trước khi ra về, mẹ tôi nói: "Mọi tình hình ông nhà tôi viết rõ trong thư rồi, có nhấn mạnh thêm với tôi là: Thời cơ hoạt động đã đến, các anh nên chuyển địa bàn hoạt động...". Sau đó, chú Hải tiễn hai mẹ con tôi về tận nhà. Đó là khoảng giữa tháng 10 năm1939.
Cuộc sống cứ trôi một cách phẳng lặng, tôi cứ việc chơi với các bạn Việt kiều và Trung Quốc, chẳng học hành gì cả. Giữa tụi trẻ con chúng tôi có lúc xảy ra cãi cọ. Khi mấy bạn Trung Quốc không bằng lòng chúng tôi, cứ chửi chúng tôi là "vong quốc nô" (đồ mất nước). Tôi tức lắm, nhớ câu mẹ nói: Trung Quốc chẳng qua đất rộng, bỏ đất cho Nhật bằng mất nước mấy chục lần Việt Nam, tôi gân cổ chửi lại: "Chúng mày cũng là vong quốc nô". Bọn trẻ ngạc nhiên, cãi lại:"Mất đâu mà mất, mày chẳng đang ở trên đất nước tao là gì?". "Ừ nhỉ", bụng bảo dạ vậy nhưng tôi vẫn cứ chửi bừa: "Mày bảo chúng tao là đồ mất nước thì chúng mày cũng thế". Cãi nhau suốt từ 7 giờ tối đến 8 giờ tối, bất phân thắng phụ. Cuối cùng hai bên đều mỏi mồm, ai về nhà nấy.
Lại một buổi chiều đầu tháng 11, sau bữa ăn, chú Trụ thầm thì điều gì với mẹ tôi, bà lại dắt tôi ra đầu phố gặp chú Trịnh Đông Hải. Hai người nói điều gì đó rồi ba người lên hai chiếc xe kéo. Tôi nghĩ chắc lại đi gặp chú Phùng Chí Kiên. Nhưng lần này xe đi vào những khu phố vắng, tôi hỏi mẹ: "Đi đâu thế mẹ?", "Đi gặp chị!".
Gặp chị ư?. Tôi không tin ở tai mình nữa, ngỡ là chiêm bao. Trong mơ tôi gặp chị nhiều lần, sướng ơi là sướng, tỉnh dậy chẳng thấy chị đâu.
Vừa đi, tôi vừa hỏi mẹ: "Có thật không?" vừa lấy tay cấu thật đau vào người để kiểm chứng xem có phải chiêm bao không. Đến một nhà trọ giữa phố vắng, chú Hải đưa hai mẹ con lên tầng hai, gõ cửa. Chị tôi ra mở cửa, mặt mũi tươi cười, nhưng người rộc đi nhiều so với thời kỳ sắp rời nhà lên căn cứ xô viết Thiểm Bắc đi học. Tôi ôm chầm lấy chị. Chú Hải ngồi một lúc thì ra về. Thế là lại được nằm cạnh chị, tất nhiên chị tôi lại nằm giữa, mẹ nằm ngoài, tôi nằm trong sát tường. Đêm hôm ấy ba mẹ con thức khuya lắm để trò chuyện.
Khi chú Hải vừa đi khỏi, mẹ tôi hỏi: "Hành lý con đâu?... Về từ hôm nào?".
Chị tôi chưa kịp trả lời, bà đã mở tủ áo ra. Thấy trong tủ chỉ có một va ly con xách tay, bà hỏi tiếp: "Áo quần, chăn màn đâu mà chỉ có một va ly xách tay thế này?". Chị cười ngượng nghịu, trả lời: "Con về sáng qua, đồ đạc đang để ở nhà người bạn gái". Mẹ chỉ cười, không nói gì nữa.
Nằm trên giường, nghe chị kể chuyện dọc đường đi vất vả làm sao, vì ô tô khách không ghé qua Quý Dương, cho nên không vào thăm cha được v.v... Mẹ tôi cứ để cho chị kể. Diệc Lan tiếp tục kể chuyện mình, như để lấp chỗ trống. Rồi cuối cùng câu chuyện của chị cũng kết thúc. Mẹ tôi nói mà tôi sững sờ: "Con về Côn Minh lâu rồi, đi qua Quý Dương sợ thầy mẹ giữ lại, nên không dám ghé thăm nhà...". Chị tôi hết lời thanh minh. Tôi cũng chẳng hiểu thực hư thế nào. Ngày hôm sau, chị bảo: "Con sẽ đến nhà bạn con lấy hành lý, đồ đạc và thu xếp một số công việc, khoảng một tháng gì đó sẽ về ở hẳn với mẹ và em".
Sau khi chia tay, về đến nhà, mẹ bàn với các chú thu xếp cho một chỗ ở riêng. May gần đó có một căn buồng khoảng 6 mét vuông, đặt vừa được một chiếc giường đôi và một bàn làm việc, va ly áo quần để trên giường, nồi niêu soong chảo để dưới gậm giường và gầm bàn. Hàng ngày hai mẹ con sống với nhau và phấp phỏng ngóng chị về. Vào khoảng tháng 11, chị tôi xách chiếc va ly con và chăn màn về đến nơi. Thế là ba mẹ con lại được ở bên nhau. Không hiểu vì lý do gì, mẹ và chị dặn tôi, ai có hỏi gì thì thác rằng chị này là bạn thân của chị ruột tôi; còn chị ruột là Diệc Lan thì vẫn đang ở Lão Hà Khẩu với chồng. Do đó, chỉ khi nào có ba mẹ con với nhau mới được nói tiếng mẹ đẻ, còn trước mặt mọi người thì chúng tôi phải nói tiếng Trung Quốc. Được cái căn buồng đó tương đối biệt lập. Trong hàng xóm láng giềng phần lớn là Việt kiều - họ cũng tưởng như vậy, chỉ riêng chú Trụ, chú Trình là biết chị tôi.
Ngày trước, mặt chị tôi bầu bĩnh, người tương đối đẫy đà, bây giờ trông chị tôi gầy nhom, hai gò má nhô cao, nước da xanh và hay húng hắng ho. Trước khi ra đi, anh Tân Dân đưa chị tôi một khoản tiền để uống thuốc, vì chị bị sơ nhiễm lao. Buổi sáng, mặt chị tái nhợt, đến khoảng một, hai giờ chiều, hai con mắt chị sáng long lanh, hai má hây hây mầu hồng. Hai, ba giờ sáng chị thường đổ mồ hôi trộm. Thời đó bệnh này coi như bó tay, chỉ điều trị bằng cách ăn uống bồi dưỡng sức khỏe để lui căn bệnh. Mẹ và chị đưa nhau đi khám thầy lang và hàng ngày sắc thuốc uống. Nhờ nghỉ ngơi công việc, ăn uống điều độ, uống thuốc bắc thường xuyên, con bệnh có vẻ lui. Nhưng mầm bệnh thực ra vẫn còn nguyên, sẽ gây tác hại lâu dài về sau.
Trong thời gian ở bên nhau, mẹ thường đưa ra những lý lẽ và nhận xét sắc sảo về sự kín tiếng bấy nay của chị. Cuối cùng chị tôi đành thú nhận:
"Con về Côn Minh từ hè năm 1939, các anh sợ bịn rịn cảnh thầy ốm nặng, khuyên con đi thẳng về Côn Minh. Các anh định bố trí con và anh Cao Hồng Lĩnh về Hà Nội đóng giả Hoa kiều để làm cơ sở liên lạc trong và ngoài nước. Không ngờ, chưa chuẩn bị xong mọi công việc thì anh Lâm Bá Kiệt[6] và anh Dương Hoài Nam[7] từ trong nước ra, cho biết trong nước bị vỡ cơ sở, nhiều đồng chí bị bắt, do đó tạm thời chưa thể về được. Anh Dương Hoài Nam đỗ cử nhân. Đảng dự kiến đưa hai anh sang Liên Xô học. Trong khi chờ đợi, con được bố trí dạy Trung văn cho các anh. Các anh đã học được ba tháng rồi. Anh Phùng Chí Kiên thấy mẹ thắc mắc về con, vả lại trước mắt cũng chưa có điều kiện về nước, hơn nữa thấy con ốm yếu, các anh bàn nhau cho con về với mẹ một thời gian rồi tính sau. Còn hai anh Nam và Kiệt đang chuẩn bị lên vùng đỏ để Đảng Cộng sản Trung Quốc bố trí đi học Liên Xô, do đó mới có cuộc gặp mẹ ở nhà trọ. Con về kể chuyện mẹ nghi ngờ về cuộc gặp gỡ, các anh cười và lắc đầu bảo mẹ sắc sảo quá...".
Ba mẹ con sống đầm ấm với nhau trong một thời gian khá dài thì có thư của cha tôi viết rằng ông chuẩn bị về Liễu Châu, các anh Lý Quang Hoa, Cao Hồng Lĩnh sẽ đưa cha tôi tới đó. Ít lâu sau nữa, có thư cho biết cha tôi đang nằm ở bệnh viện Quế Lâm, anh Tân Dân cũng đã về đó, giục ba mẹ con chúng tôi đi Quế Lâm. Từ giã Côn Minh, chú Trụ đen đưa chúng tôi về Quế Lâm. Các chú thuê được hai phòng với một gian nhỏ làm bếp ở tầng hai. Các chú ở phòng lớn khoảng 16, 18 mét vuông, Phòng kia khoảng 8 đến 10 mét vuông, giành cho mẹ và tôi nằm ở một giường đơn, còn chị tôi và anh Tân Dân nằm dưới sàn. Hai anh chị vừa trò chuyện như đôi chim bồ câu vừa cười rúc rích, có vẻ thú vị. Ít tuần sau đến ngày Tết âm lịch năm Tân Tỵ, tức đầu năm 1940, anh Tân Dân còn ít tiền đưa các chú sắm Tết. Các chú mua một thủ trâu to tướng về hì hụi cạo lông, róc thịt, bổ đầu lấy bộ óc, chặt xương và mượn một chảo gang to về ninh xương ngay trong phòng lớn. Không rõ các chú kê gác thế nào, chỉ thấy đặt kiềng ba chân, chất củi to bằng cổ tay người lớn ngay trên sàn gỗ, rồi nổi lửa ninh xương suốt từ trưa đến cuối chiều, mà sàn gỗ vẫn không bị cháy.
Đêm ba mươi Tết ngoài trời mưa phùn gió rét. Cả nhà ngồi quây quần. Tôi còn nhớ, đêm đó có chú Trụ chủ trì bữa cơm tất niên, các chú Lý Quang Hoa, Thược, Văn, Từ Chí Kiên, rồi anh Tân Dân, ba mẹ con chúng tôi tề tựu. Tất cả khoảng chục người. Chỉ thiếu có cha tôi, thui thủi nằm một mình trong viện. Đó là bữa tất niên với món ăn rẻ tiền nhất, nhưng cũng ngon lành nhất, mọi người xì xụp ăn uống, trò chuyện. Đêm giao thừa pháo nổ râm ran.
Sáng hôm sau ra cổng thấy ngoài đường toàn xác pháo. Trẻ con vẫn đua nhau đốt pháo đì đoành khắp nơi. Cả nhà kéo nhau qua sông Ly Giang, vào viện chúc Tết cha tôi. Ông kể rằng đêm qua ba mươi Tết, bệnh viện cho ăn tươi.
Có vẻ Quế Lâm sẽ là chỗ ở lâu dài, nên chị tôi liên hệ cho tôi học một trường gần nhà. Hàng ngày tôi lại đi học hai buổi, mỗi lần về nhà lại thấy vắng mặt một số chú. Cuối cùng anh Tân Dân cũng đi nốt, chỉ còn chú Trụ và chú Văn. Để tiện cho mẹ con đi thăm cha tôi, trước khi đi xa, anh Tân Dân đã cùng chú Trụ tìm được một căn nhà gỗ hai tầng, cách bệnh viện không xa. Chúng tôi thuê hẳn bốn phòng tầng trên. Ngôi nhà có sân rộng, với một nhà bếp riêng phía sau sân, và các công trình phụ. Nhưng anh Tân Dân đi trước khi dọn đến nhà mới. Chỉ còn chú Trụ, Thược, Văn cùng ba mẹ con về ở đó.
Ngôi nhà này cấu trúc kiểu truyền thống, hai bên nhà là hai phòng ngủ, ở giữa gồm tiền sảnh và hậu sảnh. Bao quanh tầng trên là ban công. Phía trước nhà là đường qua lại. Cách đó không xa là sông Ly Giang, nước trong xanh chảy êm đềm. Xa xa trên sông có một đám đá trồi lên nhấp nhô, nhân dân quanh vùng gọi đó là "đảo Bông". Quả là giống một đám bông nổi trên mặt nước. Khi nào mùa lũ, nước dâng cao lấp "đảo Bông", sông đục ngầu trong con nước đỏ. Có một bến đò gần đó, ngày ngày chở khách sang ngang. Chúng tôi đi đò sang bờ Mộc Long Động. Đi khỏi động là đến cửa sau của bệnh viện, tới một dãy nhà một tầng nằm ngang trong vườn bệnh viện, trong đó có một phòng khoảng mươi mười hai mét vuông nơi cha tôi nằm điều trị. Chị Diệc Lan đi làm cho một hiệu sách cũng ở bên kia sông, chiều về ghé thăm cha rồi mới về nhà. Tôi thì hàng ngày vẫn đi học ở trường tiểu học gần nhà.
Chị Huệ Quần (Trầm Huệ Phượng)[8] làm y tá vất vả quá, đành bỏ bệnh viện ở Quý Dương, theo gia đình tôi về Quế Lâm. Chị tìm được chân bán sách ở một cửa hàng sách. Mẹ và chị Diệc Lan bảo về nhà ở, chị nói:"Con có nghề y tá, con biết cách chăm sóc cha, để con về ở trong phòng bệnh cùng cha, vừa để chăm cha vừa để học thêm". Mẹ và chị sợ chị Huệ Quần vất vả quá, không đồng ý, nhưng chị nhất quyết đòi làm vậy. "Hãy để con có cơ hội hiếu kính papa". Về sau, chị đi học lớp kế toán sáu tháng, và chuyển sang làm kế toán cho một công ty. Ít lâu sau vì bệnh nhân đông, bệnh viện xếp thêm một bệnh nhân nằm cùng cha tôi, chị phải về ở cùng gia đình tôi. Chị là một người sống có tình nghĩa thủy chung. Sau, vì chuyện tình riêng, chị phải lánh đến đi thành phố khác.
Sau này tôi được nghe mẹ và chị tôi kể chuyện về bệnh tình của cha mình như sau. Khi ở Quý Dương, cứ ba tháng cha tôi vào bệnh viện một lần để rút nước trong bụng ra, ông rất mệt, và sợ phẫu thuật đó. Nhưng nếu cứ để bụng to mãi, tim phổi bị chèn ép, gây khó thở. Bệnh viện Quảng Tây ở Quế Lâm là quân y viện lớn nhất của Đệ tứ chiến khu, có phương pháp và thuốc men chữa trị hiện đại, do đó cha tôi không phải trải qua tiểu phẫu thuật đó nữa mà được tiêm một loại thuốc của Mỹ, nước trong ổ bụng sẽ theo đường tiểu ra ngoài. Nhờ đó cha tôi đỡ mệt và người nhẹ nhõm hẳn, tinh thần cũng sảng khoái hơn, đôi mắt đỡ mệt mỏi hơn. Nhưng ông vẫn phải nằm bất động vì tim to.
Trong những đêm ba mẹ con nằm trò chuyện, chị tôi mới kể một chuyện như sau:
"Sau khi anh Phùng Chí Kiên nhận được thư cha tôi, anh đọc cho mọi người trong nhóm lãnh đạo ở Côn Minh, trong đó có một lão đồng chí …”
Mẹ tôi cắt lời chị, nói ngay: "Đó là Nguyễn Ái Quốc. Chỉ có ông Nguyễn Ái Quốc mới được mọi người tôn trọng đến thế. Một dạo, mẹ đi lang thang trên đường phố Côn Minh để xem có tình cờ gặp được con không. Một hôm thấy một người đàn ông dong dỏng cao, trán rộng và hói, mũi cao và thẳng từ đầu kia đi tới, nhìn thấy mẹ, ông vội kéo sụp mũ phớt xuống và đi lướt qua mẹ. Vì gặp bất thần, mẹ hơi ngỡ ngàng. Khi định thần, ông ấy đã đi khuất. Mẹ ngầm đoán là Nguyễn Ái Quốc đang có mặt ở Côn Minh".
Chị tôi nói: "Nếu thế, thì con cũng gặp ông cụ rồi. Có một lão đồng chí như thế trong một buổi họp mặt những người yêu nước. Ông cụ có chòm râu cằm lưa thưa. Cụ thỉnh thoảng lại đưa mắt quan sát con từ chỗ ngồi cách xa chỗ con ngồi. Con cứ tưởng đó là một ông già yêu nước nào đó”. (Thật ra đó là cuộc họp chi bộ, chị tôi vẫn giấu gia đình về chuyện chị đã trở thành đảng viên cộng sản).
Căn cứ vào tình hình thế giới, trong nước và địa bàn hoạt động, nhóm lãnh đạo nhận thấy ý kiến và cơ hội mà thầy tôi[9] đưa ra trong thư là hợp tình hợp lý. Khi đó hai anh Lâm Bá Kiệt và Dương Hoài Nam đã đi Quý Dương, chờ dịp sang Liên Xô học tập. Cuối cùng, đã quyết định: cử người về Liễu Châu lập tiền trạm; cử Lý Quang Hoa, Cao Hồng Lĩnh đến đón thầy tôi đi về Liễu Châu; đồng thời đánh điện yêu cầu các anh Lâm Bá Kiệt và Dương Hoài Nam không đi tiếp về Diên An nữa, mà quay về Liễu Châu nhận nhiệm vụ mới. Rồi mọi người phân tán thành nhiều đợt, di chuyển dần về Quảng Tây. Khi Lê Tân Dân thông báo việc này cho anh em, anh cố tránh nói đến Nguyễn Ái Quốc, để mọi người cứ tưởng quyết định trên là của nhóm lãnh đạo do Phùng Chí Kiên đứng đầu đưa ra. Đó là nhằm giữ kín tung tích của Nguyễn Ái Quốc. Khi cha tôi về Liễu Châu, các anh đều có mặt ở đấy. Cha tôi đã đưa một số các anh trong đó có Phùng Chí Kiên và Lý Quang Hoa tới gặp mặt Trương Phát Khuê, Trương Bội Công, giới thiệu họ là thanh niên yêu nước Việt Nam. Ở bản doanh của Trương Phát Khuê, cha tôi còn gặp Bạch Sùng Hy. Thấy ông bị bệnh tim nặng, hai tướng Trương, Bạch viết thư giới thiệu cha về điều trị ở "Quảng Tây y viện" tại Quế Lâm. Do đó các anh lại tháp tùng cha tôi về lại Quế Lâm. Mặt khác, các anh cũng không muốn hợp tác với Trương Bội Công, do đó kéo nhau về Quế Lâm với cha tôi.
Được ít lâu, nhận thấy cha tôi ngày một yếu, nhóm thanh niên ông bảo trợ lại không hoạt động theo hướng họ mong đợi, Quốc dân đảng Trung Hoa chuyển cha tôi từ chế độ ưu đãi đặc biệt thành chế độ điều trị thông thường. Thấy thế, mẹ tôi băn khoăn lắm. Nhưng cha tôi bảo: "Nằm chung một phòng với mọi người càng vui, có người trò chuyện, bà không việc gì phải băn khoăn". Ông tỏ vẻ bình thản và vui vẻ, nói với chị tôi: "Chuyện thầy là chuyện vặt, quan trọng là các anh đã có cách về nước. Xưa nay, lo sao cho các anh ấy hoạt động tốt là điều thầy mong mỏi nhất".
*
* *
Anh Dương Hoài Nam[10] đến với gia đình tôi lúc cuộc sống đã tương đối chật vật. Chú Trụ là người tháo vát, đảm đang, chú mua một đàn vịt con về nuôi. Đêm nào chú cũng cầm đèn dầu hỏa đi bắt giun cho vịt ăn. Tất nhiên, do tính tò mò, tôi cũng theo chú đi bắt giun. Lúc đầu còn sờ sợ, về sau quen tay, hễ thấy đầu giun ló ra khỏi lỗ, tôi nắm chặt và rút chúng ra khỏi đất cho vào ống bơ. Lần nào bắt được con giun dài, mà béo mẫm thì thích thú lắm. Đi cùng còn có chú Văn và chú Thược. Chú Trụ muối một vại to dưa cải. Có hôm trên mâm có dưa chua ăn sống, dưa chua xào dầu lạc và dưa chua nấu canh. Cả nhà vẫn ăn uống ngon lành. Đàn vịt mười con, nuôi một chập chỉ còn lại dăm con. Tôi những tưởng khi nào chúng biết kêu quạc quạc thì mới làm thịt, ngờ đâu chú Trụ bắt ráo mấy con vịt nhỡ vặt lông làm thịt, cả nhà được bữa chén tươi. Mấy hôm sau, ba chú Trụ, Thược, Văn biến mất, chỉ còn chú Nam ở lại.
Chị tôi hết lời ca ngợi chú Dương Hoài Nam thông minh xuất chúng. Lúc còn ở Côn Minh chị kể:
"Anh Lâm Bá Kiệt nước da ngăm đen, hai mắt sáng với gương mặt xương xương, trông đàn ông. Anh ít nói. Còn anh Dương Hoài Nam da trắng, gương mặt khôi ngô, thư sinh, tính tình hoạt bát sôi nổi, làm việc suốt ngày. Hễ anh nghỉ xả hơi, anh liền hỏi chị bằng tiếng Trung Quốc: ‘Cái này là cái gì? Cái kia gọi là gì v.v...’, cố chắp nối các từ nói những tiếng Trung Quốc dài và phức tạp. Do tính hiếu học, anh học tiếng Trung Quốc nhanh và giỏi. Con người anh lạ và mới lắm. Có hôm chị đang giặt đống quần áo bẩn, anh ngồi xuống cạnh chị, thò tay giặt giúp chị, tranh thủ cả cơ hội này để luôn miệng nói tiếng Trung Quốc. Thấy anh giặt đồ của chị, chị ngượng ơi là ngượng, nhưng anh Nam vẫn không để ý, cứ vui vẻ trò chuyện với chị bằng tiếng Trung Quốc, để cố học được nhiều từ mới. Anh khoe vợ anh rất đẹp và vừa sinh một cháu gái rất kháu khỉnh... Có hôm anh kêu lên: ‘Chị Diệc Lan ơi, tôi nhớ vợ con quá’ …"
Với chị tôi, trường hợp anh Hoài Nam thật đáng ngạc nhiên, bởi vì anh khác với khuôn mẫu của các vị lãnh tụ của giai cấp vô sản mà chị tôi vẫn sùng bái. Chị từng nói: "Stalin dạy: Người cộng sản là con người làm bằng chất liệu đặc biệt, con người thép. Có nghĩa là người vô sản rất "thần thánh", rất "khác người", “không có những tình cảm bình thường". Chính quan niệm của chị tôi đã có ảnh hưởng ghê gớm đến tư duy sau này của tôi.
Một hôm, chị tôi kể: "Đêm qua chị học tiếng Anh đến 11 giờ, anh Dương Hoài Nam thấy đèn phòng chị vẫn sáng, anh gọi: ‘Chị Lan ơi, chị đi ngủ chưa?... Ra ngoài này cùng trò chuyện một lúc nhé’. Chị và anh ấy ra đứng ở ban công, bên dưới là dòng Ly Giang lấp lánh, vằng vặc ánh trăng. Cảnh đẹp vô ngần. Anh kể chuyện hoạt động cách mạng trong nước, rồi chuyện vợ anh cũng tham gia hoạt động. Ước chừng con gái anh đã đầy tuổi tôi, anh mong chóng có ngày giải phóng đất nước, để được đoàn tụ với vợ con. Anh nói anh thích sử học và chưa thấy trong nước có cuốn sử nào viết hay, vì các sử gia không viết sử theo quan điểm duy vật biện chứng. Nếu nước nhà giành được độc lập, anh sẽ chuyên nghiên cứu lịch sử của dân tộc Việt ... Chị kể cho tôi chuyện này với đôi mắt long lanh đầy tình cảm sùng bái. Đó là hè thu năm 1940, chị tôi mới hai mươi tuổi, tôi vẫn là đứa trẻ lên mười. Chị tôi nói gì tôi cũng hoàn toàn tin theo, vì tôi sùng bái chị. Chị sùng bái những lãnh tụ của giai cấp vô sản, tất nhiên tôi cũng vậy.
Những khi rỗi, tôi chạy đến đứng trước bàn làm việc của Dương Hoài Nam, chăm chú xem chú ấy làm việc. Trên bàn có một lọ mực nho đựng loại mực đen, với cán bút và ngòi bút thon nhỏ (khác những ngòi bút thông thường). Bên trái, chú để một cuốn sách dầy bằng chữ Trung Quốc, bên phải là tập giấy pơluya mầu vàng. Mắt chú nhìn vào sách, tay chú viết nét chữ thanh, đều tăm tắp và rất đẹp. Đối với tôi, đó là một việc làm phi thường, bởi vì mắt chú không nhìn vào trang giấy viết mà các dòng chữ vẫn đều, thẳng tắp. Tôi hỏi chị: "Chị ơi, sao chú tài giỏi thế? Chú đang dịch gì đấy?". Chị cười trả lời: "Hình như dịch Lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô. Những trang viết như thế của Hoài Nam sẽ dán vào đá và in ra sách! Em biết không, anh Nam học tiếng Trung Quốc mới sáu tháng, vậy mà buổi họp mặt tọa đàm về vấn đề văn hóa Việt - Trung, anh trình bày tình hình trong nước bằng tiếng Việt, chị dịch sang tiếng Trung Quốc, thấy chị dịch chưa thoát, anh nói thẳng bằng tiếng Trung Quốc luôn, rất trôi chảy. Các nhà báo Trung Quốc hết sức ngạc nhiên, hỏi anh học tiếng Trung Quốc bao lâu rồi, chị trả lời thay là "mới sáu tháng". Mọi người hết sức kinh ngạc và kính phục. Có thể nói, Hoài Nam rất tài năng...!
Mẹ tôi tính nóng, bộc trực cho nên bà hay làm mất lòng mấy người trong nhà. Đối với một người cần cù làm việc ngày đêm và tài năng như Dương Hoài Nam (Võ Nguyên Giáp), mẹ tôi hết sức nể trọng. Cũng như mẹ tôi hay nhắc những người ngày trước từng đến ở trong nhà chúng tôi, như Thái Lai (Hà Huy Tập), chị Duy (Nguyễn Thị Minh Khai), Lê Hồng Phong... với giọng hết sức trân trọng kính nể. Bà thường nói với chúng tôi: "Các con xem, người chỉ biết làm việc cả ngày lẫn đêm, tâm hồn họ làm gì còn chỗ cho những điều tẹp nhẹp".
Dương Hoài Nam là người cuối cùng rời khỏi gia đình tôi vào cuối mùa hè. Sau khi chú đi khỏi nhà, ngoài cha tôi đang nằm bệnh viện, chỉ còn lại ba mẹ con chúng tôi. Chưa đến kỳ lĩnh lương, ba mẹ con đi mua khoai tây, khoai lang ăn trừ bữa. Sợ láng giềng biết sự túng bấn của mình sẽ coi thường, chúng tôi không dám luộc khoai dưới bếp chung dành cho các gia đình cùng khu nhà.
Chị Trầm Huệ Phượng cứ ngày chủ nhật lại về chơi. Nhà ở thừa hai phòng, chúng tôi cho người ta thuê lại.
Sau khi không còn chú nào ở trong gia đình nữa, nhu cầu chỗ ở không lớn, để tiết kiệm, và cũng để tiện cho công việc của chị và chăm nom cha tôi, cuối cùng chị tôi thuê được một phòng khoảng mươi mười hai mét vuông, và một phòng khoảng 6 mét vuông. Gia đình chúng tôi chuyển về ở đó. Đó là Quế Hoa Lộ. Từ chỗ đó đến bệnh viện nơi cha tôi điều trị khoảng nửa kilômét và không phải sang sông. Lúc đó khoảng cuối tháng 4, đầu tháng 5 năm 1941.
[1] Nhạc cụ tiền thân của đàn organ, có bàn phím, có hộp đàn, gần như piano nhưng bé hơn.
[2] Trần Báo và Đặng Xuân Thanh đều đã mất vào khoảng giữa những năm 1940.
[3] Cũng gọi là Cao Hồng Lãnh
[4] Hội viên của Hội quán Hoa kiều. Hoa kiều ở các nơi trên thế giới tổ chức các hội (giống như Hội đồng hương ở Việt Nam) tại Trung Hoa để khi về nước thuận tiện hơn trong ăn ở, liên hệ. Những người cách mạng cũng thường dùng các cơ sở này làm địa điểm liên lạc. Con em người Việt Nam yêu nước ở Thái Lan như Lý Phương Đức, Lý Phương Thuận, Ngô Khôn Duy, Ngô Chính Quốc, Trần Báo … từng có thời kỳ học trong các trường do người Hoa mở ở Thái Lan, và từng có lúc sử dụng giấy tờ như người Hoa Kiều.
[5] Theo Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, NXB Chính trị quốc gia 1993 tr. 88 - 91, sau khi bí mật gặp ông Hồ Học Lãm, Hồ Chí Minh lênđường đi Côn Minh. Tại đây, Người đã tìm gặp Trịnh Đông Hải (Vũ Anh), và nối được liên lạc với tổ chức Đảng của Việt Nam tại Trung Hoa.
[6] Phạm Văn Đồng.
[7] Võ Nguyên Giáp.
[8] Khi ở cùng với gia đình Hồ Học Lãm, Trầm Huệ Phượng lấy tên là Hồ Huệ Quần để người ngoài khỏi nghi ngờ.
[9] Hồ Học Lãm đề nghị cách mạng Việt Nam tương kế tựu kế, lợi dụng kế hoạch “Hoa quân nhập Việt” của Tưởng để trở về nước hoạt động nhờ phương tiện và giấy tờ do chính quyền Quốc dân Đảng Trung Hoa cấp.
[10] Võ Nguyên Giáp. Lúc này vào nửa sau năm 1940.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét