Đến quê ngài là hoàn toàn nhân duyên.
Ngài vốn là pháp chủ của Giáo hội Phật giáo Bắc Kì, trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang).
Khi soạn hồ sơ mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm (hiện đã được công nhận là di sản kí ức khu vực châu Á - Thái Bình Dương), đoạn về sư Thích Thanh Hanh, tôi chủ yếu căn cứ theo tư liệu cũ của phía Bắc Giang, cộng với một số tìm tòi trước của mình trong liên hệ với Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha.
Tạm xem nhanh về chùa Vĩnh Nghiêm và mộc bản Vĩnh Nghiêm, bài của tôi, ở đây (năm 2013).
Tạm xem nhanh về chùa Vĩnh Nghiêm và mộc bản Vĩnh Nghiêm, bài của tôi, ở đây (năm 2013).
Hôm nay, trên đường du lãng, tới nơi mới biết đó chính là quê hương của ngài. Một sự tình cờ. Mà ngồi ngẫm, thì chính thực là một mối nhân duyên.
Một ngày Hà Nội ẩm ướt, nhớp nháp, vô cùng khó chịu. Liếc đồng hồ đo độ ẩm, thấy tới gần 100%.
Lúc trở ra về, trời như mù sương giăng giăng cản lối đi.
Dưới là một mẩu giới thiệu gắn về sư Thích Thanh Hanh của phía Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
---
Phật Lịch 2539 – 1995 TIỂU SỬ DANH TĂNG VIỆT NAM THẾ KỶ XX - TẬP I Thích Đồng Bổn Chủ biên Th� nh Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh ấn h� nh |
Mặc dầu được cha mẹ thương yêu, nặng tình cốt nhục cố ngăn cản, Ngài vẫn một lòng xin song thân cho phép đi tìm cuộc sống thanh thoát nơi thiền gia. Cuối cùng Ngài được toại nguyện. Lên mười tuổi (1850), Ngài đến làm lễ xuất gia với vị Hòa thượng họ Nguyễn ở chùa Hòe Nhai - Hà Nội. Năm lên 18 tuổi (1858), Ngài được về chùa Vĩnh Nghiêm, tỉnh Bắc Giang, tiếp tục tu học dưới sự chỉ dẫn của Hòa Thượng Tâm Viên. Năm 20 tuổi (1860), Ngài thọ Cụ Túc giới tại Đại giới đàn chùa Vĩnh Nghiêm. Sau đó Ngài vẫn tiếp tục ở lại chùa tu hành nghiên cứu giáo lý. Ngài tu học rất tinh tấn và trở thành một nhân vật rường cột của Tổ đình này. Năm 30 tuổi (1870), nghĩa lý đã làu, đạo thiền đã thấu, Ngài được nghiệp sư cử vào tỉnh Ninh Bình giảng dạy Phật pháp cho Tăng Ni, khi ở chùa Phượng Ban, lúc tới chùa Hoàng Kim, lại về chùa Phúc Tỉnh v.v... Đến chỗ nào, Ngài cũng chỉ thiết tha một niềm: lấy việc hoằng dương Chánh pháp, giáo hóa Tăng Ni làm phận sự. Ngài luôn tâm niệm làm mọi việc lợi lạc cho tín đồ là sứ mệnh của người xuất gia. Ròng rã ba mươi năm Ngài làm Pháp sư, đem đạo dạy đời. Trong thì Tăng Ni, ngoài thì thập phương thiện tín, ai cũng được thấm nhuần mưa pháp. Nhờ vậy mà đệ tử của Ngài nhiều người thành bậc đạo hạnh thuần nhã, tín căn kiên cố. Năm Canh Tý (1900), Ngài 60 tuổi, sư huynh của Ngài là Hòa thượng Thanh Tuyền viên tịch. Ngài trở về Tổ đình Vĩnh Nghiêm và được sơn môn suy cử vào ngôi kế đăng. Từ đó Tăng chúng và tín đồ thường gọi Ngài là Tổ Vĩnh Nghiêm. Trong cương vị đứng đầu một ngôi Tổ đình lớn vào bậc nhất miền Bắc, công việc điều hành đa đoan, Ngài vẫn không sao nhãng việc hoằng dương Chánh pháp, đào tạo Tăng tài, bồi dưỡng lớp kế thừa. Ngài thường xuyên lui tới trường Viễn Đông Bác Cổ ở Hà Nội, tìm tòi tam tạng kinh điển đại thừa, rồi xin phép ban Giám đốc cho đồ chúng đem bút giấy vào sao chép về cho khắc ván ấn hành nhiều bản. Bước đi tiên phong của Ngài đã gây nên phong trào các sơn môn lớn trên đất Bắc đua nhau sao chép và in ấn kinh sách, giúp Tăng Ni và cư sĩ có tài liệu tham cứu. Nhờ đó mà các thiền môn có được những bộ kinh quý hiếm như kinh Hoa Nghiêm Sớ Tấu, kinh Đại Bát Nhã, kinh Đại Bảo Tích, kinh Duy Ma Cật, kinh Trường A Hàm, luật Tứ Phần Tu Trì, luật Trừng Trị Tục Khắc và các bộ luận về môn Duy Thức với bộ Phụ Giáo Biên v.v... Các bộ kinh, luật, luận ấy được khắc ván và in, đều có mang lời tựa và lời bạt của Ngài. Ngày nay chúng ta đọc lại những bài ấy sẽ thấy sức học của Ngài rất uyên thâm, sự hiểu biết sâu sắc, lòng vị chúng của Ngài rất thống thiết. Ngài luôn quan tâm đến việc chấn hưng Phật giáo, quy tụ các sơn môn về một mối. Hoạt động của Ngài và Tăng hữu cho mục đích cao cả đó đã vang dội tận miền Nam, nên năm 1929, Hòa thượng Khánh Hòa đã cử Thiền sư Thiện Chiếu ra Bắc gặp các sơn môn để bàn việc thành lập Việt Nam Phật Giáo Tổng Hội. Nhưng vì cơ duyên chưa thuận, việc không thành. Sau đó miền Nam, rồi miền Trung lần lượt thành lập các hội Phật giáo. Miền Bắc đến ngày 05-12-1934, Bắc Kỳ Phật Giáo Hội mới chính thức được thành lập. Hội đã thỉnh cầu Ngài làm Thiền gia Pháp chủ. Tuy tuổi Ngài lúc đó đã 94, sức khỏe đã giảm sút nhiều, nhưng vì ước nguyện mấy chục năm nay của Ngài đã thành sự thật, nên Ngài vẫn vui vẻ nhận lãnh nhiệm vụ nặng nề ấy. Trong lễ suy tôn, tổ chức rất long trọng tại chùa Quán Sứ ngày 23-12-1934, Ngài đã kêu gọi Tăng sĩ theo nguyên tắc lục hòa của Phật dạy mà bỏ hết dị biệt của tông nọ phái kia để dốc lòng chấn hưng Phật giáo. Tuy vậy, sự bất đồng ý kiến của một số sơn môn với Bắc Kỳ Phật Giáo Hội vẫn xuất hiện. Đó là việc hai chùa Linh Quang (Bà Đá) và Hồng Phúc cho phát hành tờ Tiếng Chuông Sớm vào giữa năm 1935, lúc đó tờ Đuốc Tuệ, cơ quan ngôn luận của hội Bắc Kỳ Phật Giáo chưa xuất hiện. Sự bất đồng ý kiến kéo dài từ giữa cho đến cuối năm 1935, nặng nề nhất là việc hai Tổ đình Linh Quang và Hồng Phúc phối hợp với các chùa chi nhánh tại Hà Nội và các tỉnh để tổ chức Bắc Kỳ Phật Giáo Cổ Sơn Môn. Trước tình trạng đó Hòa thượng Thanh Hanh đã tìm mọi cách hòa giải, Ngài thường xuyên lui tới các Tổ đình trên để đả thông và thuyết phục. Nhờ vậy mà sự bất đồng ý kiến trước đó dần dần nhường chỗ cho sự cộng tác. Đầu tháng chạp năm 1935, tờ Đuốc Tuệ ra mắt độc giả. Báo Tiếng Chuông Sớm liền viết bài chào mừng và đăng những bài có tinh thần hòa giải và cởi mở. Sau bao năm tận tụy phục vụ Đạo pháp, đào tạo Tăng tài, góp sức cho phong trào chấn hưng Phật giáo, hòa giải những ý kiến dị biệt, đưa các sơn môn miền Bắc về chung một mái nhà Phật giáo, công đức của Ngài vô cùng to lớn. Đã đến lúc Ngài có thể trút bỏ thân tứ đại để trở về cõi Tây phương Cực Lạc, nên ngày mồng 8 tháng 12 năm Bính Tý (1936), Ngài đã viên tịch tại chùa Vĩnh Nghiêm, hưởng thọ 96 tuổi đời, 86 tuổi đạo. Ý nguyện hòa hợp Tăng già, thạnh hưng Phật đạo để làm mẫu mực cho đời và hy vọng giải thoát chúng sanh của Ngài còn mãi. |
Chú thích : 1) Theo Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật Giáo Sử Luận tập III, Hòa thượng Thanh Hanh tên tục là Nguyễn Thanh Đàm (trang 149). Nhưng theo tài liệu viết về Tổ Thuyền Gia Pháp Chủ (Do Đại Đức Gia Quang ở Phân viện Nghiên Cứu Phật học Hà Nội cung cấp) thì lại thuộc dòng họ Bùi. http://cusi.free.fr/lsp/danhtvn/danhtang1-giaidoan2-09.htm Dòng Phật giáo Vĩnh NghiêmSự tích của Vĩnh Nghiêm Tự này, căn cứ theo "Bắc Giang Địa Chí" của ông Trịnh Như Tấn, hiệu Nhật Nham (Tín Đức Thư Xã xuất bản) tháng 7 năm 1937 viết: Theo tục truyền trong dân gian địa phương thì chùa Vĩnh Nghiêm được xây dựng lên từ thời Lý Thái Tổ ( 1010-1028). Nơi phát tích dòng Phật Giáo Vĩnh Nghiêm Một trong những nghiên cứu về dòng Phật Giáo Vĩnh Nghiêm là giáo sư Nguyễn Đăng Thục (Thiền học Việt Nam) cho rằng: “Dòng Phật Giáo Vĩnh Nghiêm nguyên lai phát tích bắt đầu ở chùa Ðức La, thuộc xã Ðức La, tổng Trí Yên, Phủ Lang Giang nay là Bắc Giang (Bắc Việt). Tên chữ của chùa là Vĩnh Nghiêm Tự”. Phan Phong Linh khi viết về Vĩnh Nghiêm Tự (Bán Nguyệt san Văn Đàn - số 37, ngày 12-4-1956) cho rằng: Ngôi bảo tự này không những là một nơi danh lam thắng cảnh của tỉnh Bắc Giang mà chính là một cổ tích đệ nhất của địa hạt. Sự tích của Vĩnh Nghiêm Tự này, căn cứ theo "Bắc Giang Địa Chí" của ông Trịnh Như Tấn, hiệu Nhật Nham (Tín Đức Thư Xã xuất bản) tháng 7 năm 1937 viết: Theo tục truyền trong dân gian địa phương thì chùa Vĩnh Nghiêm được xây dựng lên từ thời Lý Thái Tổ ( 1010-1028). Chùa xây trên bờ sông Thương, cách tỉnh lỵ 18 cây số. Căn cứ vào bia ký thì chùa này nổi tiếng kể từ đời nhà Trần, từ vua Trần Thánh Tông (1258-1278) trở đi, thời nào cũng có vị Cao Tăng Thiền Sư đến trụ trì, mỗi ngày một tu bổ thêm phần tráng lệ. Ðặc sắc nhất là vào thời nhà Trần, chùa này đã đại diện cho dòng Thiền đặc biệt Việt Nam, ấy là dòng Trúc Lâm Tam Tổ: Trần Nhân Tông (1279-1293) là Đệ nhất tổ, Kiên Cương Pháp Loa là Đệ nhị tổ, và Huyền Quang là Đệ tam tổ. Cả ba vị Tổ hiện nay (1937) đều có tượng thờ ở tại chùa Ðức La (Trịnh Như Tấn). Dòng Phật Giáo Vĩnh Nghiêm đời Trần Tháng sáu năm 1293, vua Trần Nhân Tông sau khi thoái vị nhường cho con là Anh Tông , xuất gia tu hành ở hai chùa Vĩnh Nghiêm và Yên Tử, hạnh đầu đà quyên cơm áo của chúng sinh, lấy hiệu là Hương Văn Ðại Ðầu Ðà hàng năm kiết hạ ở chùa này. Trong dịp nhàn du cầu đạo, Ngài đi tới Nam Sách gặp con của Thuần Mậu Công, tục gọi là Kiên Cương, là người thông minh có căn duyên bèn cho thế phát thụ tam thừa giới phẩm và truyền đạo cho, đặt cho tên hiệu là Pháp Loa, cho đi khắp nơi thuyết pháp giảng bộ "Truyền Ðăng Lục". Năm Kỷ Hợi (1299) Vua vào tu ở núi Yên Tử, lập trường giảng pháp độ tăng chùa Ngọc Vân, môn độ lần lượt tìm đến kể hàng vạn, ngài còn đi khắp nơi sức cho nhân gian hủy bỏ các dâm từ, khuyên làm điều thiện. Ði theo ngài thường có độ mươi người đệ tử thân tín trong số có Pháp Loa Thiền Sư. Nhà sư thấy nhà vua nhiệt thành với Phật Pháp, chịu đi đây đi đó, lặn lội trong quần chúng để tế độ, nhiều lần có bạch: "Tôn Ðức bây giờ tuổi đã cao mà cứ xông pha mưa gió vất vả cực khổ như vậy, lỡ khi nóng lạnh bất kỳ thì mạng Phật Pháp trông cậy vào đâu?" Ngài liền dạy: "Thời tiết sắp đến rồi, ta chỉ còn đợi ngày giải thoát thôi". Mười hôm sau, bà chị gái Ngài là Thiên Thụy Công chúa đau nặng cho mời Ngài. Ngài đi đến thăm và nói: "Nếu chị về cõi âm thì xin hãy đợi em!". Rồi Ngài trở về ngọn Tử Tiêu Phong trên núi Yên Tử. Về núi Ngài dặn lại Pháp Loa mọi sự rồi ngồi yên lặng mà hóa. Quả nhiên Ngài mất cùng ngày với bà Thiên Thụy. Khi Ngài sắp tịch ở Am Ngọc Vân, Ngài gọi Pháp Loa bảo: "Ta sắp đi đây!" Sau khi Ngài Hương Văn viên tịch rồi, Pháp Loa làm lễ hỏa đàn, vua Anh Tôn cùng đình thần đem linh cốt về an thờ ở Ðức Lăng, và xây tháp ở chùa Vân Yên, núi Yên Tử, lấy tên là Huệ Quang Kim Tháp, và dâng tôn hiệu là "Ðại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Ðầu Ðà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Ðiều Ngự Tổ Phật". Thích Mật Thể sau khi nói Tự tích Trần Nhân Tông có kết luận rằng: "Xuất Thiền Tông ở ta - nói ở Bắc thì đúng hơn - còn lưu truyền đến ngày nay là nhờ phái Yên Tử. Phái Yên Tử được phát đạt là do Trúc Lâm Tam Tổ đứng đầu, mà Trần Nhân Tông là đệ nhất Tổ vậy. Ngài tịch vào năm Long Hưng thứ 16 (1308) thọ 51 tuổi." (Việt Nam Phật Giáo Sử Lược) Sau khi Tổ Hương Vân viên tịch, Tổ Pháp Loa phụng chiếu về chùa Vĩnh Nghiêm (Ðức La) thuyết pháp, xếp đặt tăng chức và trông nom hơn một trăm ngôi chùa rải rác khắp trong nước. Muốn nghiên cứu tường tận về Thiền Học của phái Trúc Lâm Việt Nam này, chúng ta phải dành riêng một chỗ khác, nay hãy theo dõi sự tích chùa Vĩnh Nghiêm. Khoảng năm Canh Ngọ (1330), niên hiệu Khai Hựu (1329-1341), Tổ Pháp Loa truyền đạo cho Huyền Quang, rồi về chùa Quỳnh Lâm thuyết pháp. Mồng 3 tháng 3 năm ấy, Tổ Pháp Loa viên tịch, được phong hiệu là "Tĩnh Chí Tôn Giả". Tháp đề là Viên Thông. Tổ Pháp Loa là đệ nhị Tổ, còn tượng ở chùa Vĩnh Nghiêm (1937) (Ðức La). Ngài có độ hơn 15.000 đệ tử Tăng Ni trong số ấy đắc pháp được đến 3000. Ngài có soạn ra sách "Ðoạn Sách Lục" và "Tham Thiền Yếu Chỉ". Tổ Huyền Quang, Ngài thuộc làng Vạn Tải thuộc bộ Vũ Ninh, tỉnh Bắc Ninh bây giờ. Thủy Tổ là Lý Ôn Hòa làm quan triều Lý Thần Tông, được sáu đời giúp nhà Lý. Ðến Ngài và cha thì làm quan với nhà Trần. Năm Ngài mới chín tuổi đã thông minh dĩnh ngộ lạ thường. Năm 21 tuổi, Ðại Tỉ Khoa trúng Trạng Nguyên, được phụng tiếp sứ Tầu. Một lần Ngài hộ giá đến chùa Vĩnh Nghiêm (Ðức La) gặp Tổ Pháp Loa giảng đạo, bất giác Ngài tỉnh ngộ. Khi về triều hai lần dâng biểu từ quan để xuất gia, rồi đến chùa Vĩnh Nghiêm thụ giới. Tổ Pháp Loa đặt pháp hiệu là Huyền Quang. Ngài thường cùng với Ðiều Ngự Giác Hoàng (Vua Nhân Tông) đệ nhất Tổ, Ngài Pháp Loa đệ nhị Tổ đi chu du và thuyết pháp khắp trong nước. Sau khi Ngài tịch, vua ban hiệu là "Trúc Lâm Ðệ Tam Ðại Tự Pháp Huyền Quang Tôn Giả". Hiện nay còn tượng ở chùa Vĩnh Nghiêm (Ðức La). Như thế cả ba Tổ dòng Trúc Lâm đều đã lấy chùa Vĩnh Nghiêm làm trung tâm giảng đạo Thiền. Và đạo Thiền dòng Trúc Lâm Tam Tổ là một nền thiền học dân tộc vậy. Dòng Phật Giáo Vĩnh Nghiêm thời Hậu Lê - Nguyễn Ðến đời Hậu Lê, khoảng niên hiệu Diên Ninh (1454-1459) có nội thị Tinh Thủ tăng tự là Chí Tín Thượng Sĩ trùng tu Phật Tự. Ðến đời Lê Thế Tông, niên hiệu Quang Hưng (1578-1599) có hai vị cư sĩ là Nguyễn Tự Nhiên và Nguyễn Phúc Mạch cùng trùng tu. Người đứng hưng công Thái Bảo Ðà Quốc Công và Công Chúa Trưởng Phúc Thành. Chùa Vĩnh Nghiêm mới lại thêm tráng lệ. Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 10, triều Lê Hiển Tông, trong nước loạn ly chùa Vĩnh Nghiêm xiêu đổ, sau có Ni Sư Vũ Thị Lượng hiệu là Diệu Minh mới trùng tu lại Phật Tự. Mãi đến cận kim thời đại, năm Minh Mạng thứ 11 (1831) Hòa Thượng Lâm Tế Chính Tông trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm này, được vua tặng phong "Giới Ðạo Ðộ Ðiệp Lâm Tế Chính Tông Kim Mã Hòa Thượng". Năm Tự Ðức thứ hai (1849) vị Tổ chùa Phù Lãng Trung đến trụ trì, sau kế tiếp vị Hòa Thượng Tịnh Phương Sa Môn Pháp Huy tự Tâm Viên mở trường thuyết pháp. Ðến mùa xuân năm Thành Thái thứ nhất (1889 Hòa Thượng Tâm Viên ngọa bệnh, cử đệ tử Thanh Tuyền làm Chính Giám, và Thanh Hanh làm Phó Giám. Ngài Tâm Viên tịch vào 15 tháng 7 năm 1889. Mãi đến năm 1907 Sư cụ Thanh Hanh mới đến ở hẳn chùa Vĩnh Nghiêm (Ðức La), tu sửa trong chùa, thuê thợ khắc mộc bản Kinh Hoa Nghiêm. Cụ là một vị cao tăng Ðại Ðức, nên có rất nhiều đồ đệ. Năm 1935 Hội Bắc Kỳ Phật Giáo thành lập với mục đích chấn hưng Phật Giáo toàn quốc. Hội suy tôn cụ làm Thiền Gia Pháp Chủ. Mùa đông năm 1936 cụ viên tịch ở chùa Vĩnh Nghiêm, có các thân hào Pháp Nam và mấy vạn tín đồ đến dự tang lễ. Ðấy là đại lược sự tích chùa Vĩnh Nghiêm, không những theo sát với ngàn năm độc lập của dân tộc, mà còn đại diện cho cả một dòng Phật Giáo có sắc thái đặc biệt dân tộc, phản chiếu các ý thức hệ dân tộc thời Lý Trần là thời oanh liệt nhất lịch sử nước nhà. Ngày nay hai chữ Vĩnh Nghiêm đã từ Việt Bắc di vào Sài Thành mang danh hiệu là miền Vĩnh Nghiêm. Mong rằng miền Vĩnh Ngiêm này không chỉ là một nơi thờ tự, mà sẽ còn là một trung tâm Phật Học dân tộc để cho bó đuốc Trúc Lâm Tam Tổ lại một phen sáng chói với tinh thần "Phật Vô Nam Bắc" của bó đuốc Thiền Học Việt Nam. Tổ Vĩnh Nghiêm (Hòa thượng Thích Thanh Hanh, 1840-1936) Tài liệu của học giả Trần Văn Giáp (Tri Tân tạp chí 3-1944) có ghi: Tổ Vĩnh Nghiêm thế danh là Nguyễn Thanh Ðàm, pháp hiệu Thanh Hanh, sinh năm 1840 tại làng Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Ðông trong một gia đình lễ giáo. Năm 7 tuổi (1847), Tổ đã được học chữ nho. Vốn thiên tư đĩnh ngộ, tính hạnh chuyên cần nên việc học hành tiến triển nhanh chóng. Nhưng Tổ cảm thấy không thích sống cuộc đời trần tục, mà luôn luôn có hướng muốn xuất gia độ thế. Sau nhiều lần xin phép song thân cho đi tìm cuộc sống thanh thoát nơi cửa thiền, cuối cùng, Tổ đã được toại nguyện. Năm 10 tuổi (1850), Tổ làm lễ xuất gia với Hòa thượng họ Nguyễn chùa Hòe Nhai (Hòa Giai) Hà Nội. Năm 18 tuổi (1858), Tổ về chùa Vĩnh Nghiêm tỉnh Bắc Giang tiếp tục tu học dưới sự chỉ dạy của Hòa Thượng Tâm Viên. Năm 20 tuổi (1860), Tổ thọ Cụ túc giới Ðại giới đàn chùa Vĩnh Nghiêm, rồi tiếp tục lưu lại tu tập, nghiên cứu giáo lý. Tổ trở thành nhân vật rường cột của sơn môn. Năm 30 tuổi (1970), giáo pháp đã thông, thiền đạo đã thấu, Tổ được Nghiệp sư cử vào Ninh Bình giảng dạy Phật Pháp cho chư tăng ni. Ròng rã ba mươi năm, khi ở chùa Phượng Ban, lúc qua chùa Phúc Tỉnh hay về chùa Hoàng Kim... ở đâu, lúc nào, Tổ luôn tâm niệm: Hoằng dương chính pháp bằng giáo hóa tăng ni và làm lợi lạc cho quần sinh là phận sự, sứ mệnh của người xuất gia. Nhờ vậy, nhiều đệ tử tăng, tục của Tổ trở thành những bậc đạo hạnh, tín căn kiên cố. Phật sự của Tổ ngày càng nhiều hơn. Năm 60 tuổi (1900), Hòa thượng Thanh Tuyền (sư huynh của Tổ) viên tịch. Khi trở về tổ đình thọ tang, Tổ được sơn môn bầu vào ngôi vị Kế Ðăng. Từ đó, mọi người thường gọi là Tổ Vĩnh Nghiêm. Ở ngôi vị Trưởng Thủ Tổ Ðình, một sơn môn lớn vào bậc nhất miền Bắc, dù công việc điều hành đa đoan, Tổ vẫn luôn vân du hoằng dương chính pháp, lưu tâm đến việc đào tạo tăng tài, bồi dưỡng lớp kế thừa. Nhờ vậy, Phật Giáo miền Bắc thời đó tiến triển hơn nhiều. Tổ thường xuyên tới Trường Viễn Ðông Bác Cổ (E.F.E.O) ở Hà Nội, tìm tòi Tam Tạng Kinh Ðiển Ðại Thừa, xin phép sao chép về khắc ván ấn hành phổ biến. Bước đi tiên phong của Tổ đã gây được phong trào các sơn môn lớn miền Bắc sao chép và phổ biến kinh sách, giúp các tăng ni, cư sĩ tại gia có tài liệu tham cứu. Ngoài ra còn liên hệ với Hội Nghiên Cứu Đông Dương (Société Des Etudes Indochinoises) để tìm kiếm những kinh điển Phật Giáo khác. Các bộ Kinh quý hiếm như: Hoa Nghiêm Sớ Tấu, Ðại Bát nhã, Ðại Bảo Tích, Duy Ma Cật, Trường A Hàm, cùng các bộ Luật: Tứ Phần Tu Trì, Trùng Trị Tục Khắc, các Luận về môn Duy thức với bộ: Phụ Giáo Biên... đều được khắc ván ấn hành với lời Tựa và lời Bạt của Tổ (Theo Tâm Hoà Ngô Mạnh Thu - Kỷ Yếu Vĩnh Nghiêm Hải Ngoại - Năm 2000). Cũng theo tác giả trên thì: Một trong những vấn đề Tổ Vĩnh Nghiêm luôn quan tâm nhất là việc chấn hưng Phật giáo, quy tụ các sơn môn về một mối. Sự hoạt động của Tổ và các tăng hữu cho mục đích cao cả đó vang động khắp nơi trong nước. Năm 1928, Hòa thượng Khánh Hòa ở miền Nam cử thiền sư Thiện Chiếu ra Bắc gặp Tổ và các sơn môn để bàn việc thành lập Việt Nam Phật Giáo Tổng Hội. Vì cơ duyên chưa thuận nên chưa tiến triển ngay được. Nhưng Tổ vẫn âm thầm, miệt mài với nền thống nhất. Những năm sau đó: miền Nam (1931), miền Trung (1933), miền Bắc (1934), lần lượt các Hội Phật Giáo được thành lập. Hội Bắc Kỳ Phật Giáo đã cung thỉnh Tổ Vĩnh Nghiêm lên làm Thiền Gia Pháp Chủ. Lúc đó, Tổ đã chín mươi tư tuổi, sức khỏe đã giảm sút nhiều. Nhưng vì nguyện ước Thống Nhất Phật Ðạo ấp ủ từ bao năm đã thành sự thực, nên Tổ hoan hỉ nhận trách nhiệm nặng nề ấy. Trong lễ suy tôn, tổ chức rất long trọng tại chùa Quán Sứ - Hà Nội - ngày 23 tháng 12 năm 1934, Tổ đã kêu gọi tăng ni hãy theo phép Lục hòa Phật dạy mà bỏ đi dị biệt của tông nọ phái kia để hết lòng chấn hưng Phật Giáo. Sau bao năm tận tụy phục vụ đạo pháp, đào tạo tăng tài, góp công sức cho phong trào Chấn Hưng Phật Giáo, hòa giải sai biệt, đưa các sơn môn miền Bắc về chung một mái nhà, ngày Mồng Tám tháng Chạp năm Bính Tý (1936), Tổ an nhiên viên tịch tại chùa Vĩnh Nghiêm, thọ chín mươi sáu tuổi đời, tám mươi sáu tuổi đạo. Ý nguyện của Tổ Vĩnh Nghiêm: "hòa hợp Tăng già, thịnh hưng Phật đạo để làm mẫu mực cho đời và giải thoát quần sinh" sẽ còn mãi trong tâm các hàng Phật tử. TÌM HIỂU ĐẠO PHẬT - SỐNG ĐỜI THANH THẢN THEO PTVN |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét