Nơi ấy xem là một thánh địa của người Chăm. Gắn với thần sóng biển Po Riyak. Ông Tạ Chí Đại Trường đã từng có ý gắn Tứ Vị Thánh Nương (ở đền Cờn, Nghệ An) với Po Riyak. Thật ra, ngay bản thân Po Riyak cũng là truyền thuyết ngoại nhập, vốn không phải của Chăm.
Nơi mà thần Po Riyak của người Chăm ngự, thì nay, đang dần dần cuốn vào khu vực nhà máy điện hạt nhân.
Bài ở dưới lấy nguyên từ trang của nhà thơ Phú Trạm Inrasara.
---
Inrasara
HÀNH HƯƠNG PO RIYAK
Posted on 16.04.2016 by Sara[Photo Nguyễn Hùng]
Thuở xà lỏn, mỗi đầu năm Cham lịch, tôi hay theo mẹ đi Nau Yang ở Bingun Ia Ralong Giếng Nước Ngàncách palei cũ về hướng biển nửa cây số. Trẻ con biết thế nào là đầu năm, cứ đến mùa đỉnh nắng, là tôi mình trần chạy theo mẹ. Mẹ la: nắng thế này mà mi cứ đòi. Nhưng thế nào rồi mẹ cũng quăng cho tôi cái áo.
Mẹ bước nhanh, tôi càng nhanh hơn. Để kịp xem múa đạp lửa, sau đó được trái chuối chấm với bỏng nếp, thêm miếng cùi dừa nữa.
Vậy thôi. Chiều, tôi theo đám bạn đi lễ Rija Nưgar ở đầu làng.
Rija Nưgar là lễ đầu năm Cham lịch, tại mọi làng Cham, không kể Cham Awal hay Cham Ahier. Sau đó mới tới bao nhiêu cuộc lễ ăn theo khác. Rồi không hiểu tại sao riêng mỗi palei Chakleng tôi Nau Yang Po Riyak trước lễ trọng đại này.
Văn học Cham khái luận do nhà Tri thức in lần ba (2015, tr. 81-82):
“Truyền thuyết kể, Po Riyak, người xứ Bicam Tánh Linh thuộc, thuở bé thông minh, đạo đức, ít chú tâm đến chuyện gia đình mà chỉ lo công tác xã hội. Lớn lên, nhận thấy đất nước bị lâm nguy, dân lành đau khổ, người sang Mưkah (Mecca, đúng ra là Kelantan, nhưng Cham cứ cho là Mưkah) học bùa thiêng với quyết tâm sẽ trở về cứu quốc. Ở Mecca, Người tâm sự hết với Thầy hoài bão của mình và được Thầy thương tình truyền dạy cho mọi bùa phép thần thông. Sau đó, mặc dù nhiều lần Thầy can ngăn (do gặp năm kị tuổi Người), Người vẫn lén lên đường trở về Tổ quốc.
O brei wơk daung nưgar pađiak hatai o bik bican
Không cho trở về cứu quốc, lòng dạ nóng như thiêu
Gần đến bờ biển quê hương, biển động mạnh khiến chiếc thuyền của Người bị một cơn sóng lớn đánh chìm. Người Cham nghĩ sự cố xảy ra do lời nguyền rủa (vì không nghe lời Thầy) của Thầy được ứng nghiệm:
Gru hatơm nau di ia ikan cabbauh
Nau di glai ula cauh, rimaung bbơng raung talang
Thầy rủa: đi đường biển thì bị cá đớp
Đi đường rừng thì bị rắn cắn, cọp tha
Người mất. Dân làng lập đền thờ Người. Nhưng sau đó Người lại sống dậy. Nhìn thấy quê hương tan nát, đời sống dân tộc khốn khổ, buồn lòng, Người lên núi sống rồi lấy vợ người Kơho làng Rapat và có được hai người con gái xinh đẹp”.
Lịch sử ghi thế. Còn Cham đâu có nghĩ đơn giản vậy. Các Po Champa chưa bao giờ chết cả, mà nau mưrup hóa thân về trời.
Với Cham, “lịch sử chuyển thành huyền thoại, truyền thuyết” bởi vì, “í niệm về thời gian – không gian (thế giới khách quan) không phải bao giờ cũng rõ rệt và tỏ ra là cần thiết trong thói quen tư duy của người dân Đông Nam Á” (Nguyễn Tấn Đắc) nói chung, Cham càng không chừa.
Thế nên ngày tháng năm sinh và cả nơi sinh của các Po không được người Cham đặt thành một vấn đề quan trọng cần phải suy cứu cho tới nơi tới chốn. Po Klaung Girai có thể sinh ở Parik, Kraung, chớ gì riêng Chakleng quê tôi. Miễn nhân cách Người, sự nghiệp của Người luôn giữ được nét độc đáo và đặc sắc, mãi mãi là nguồn cảm hứng cho các sáng tác văn học hay cho mọi tưởng tượng bay bổng.
Giai thoại [hay huyền sử] quan trọng hơn sự kiện lịch sử là thế. Nó chính là “dòng suối tiềm ẩn bên trong” mang đầy ý nghĩa sử tính mà “chối đi con người sẽ cảm thấy thiếu một cái gì và dân tộc sẽ thiếu đi mối dây ràng buộc thiêng liêng rồi sẽ đi tới chỗ băng hoại”. Nói như thế không phải chúng ta từ chối những truy tìm mang tính lịch sử – sự kiện mà là chúng ta chỉ chối bỏ “óc duy sử chỉ chấp nhận hiện tượng bên ngoài” mà không nhìn nhận những gì tồn tại ngoài nó.
Phần Po Riyak, mảnh thì từ Bình Thuận lên núi vùng Lâm Đồng sống mai danh ẩn tích, mảnh nữa đã “chết” thật. Ngài biến thành cá ông giạt về phơi mình bãi biển Vĩnh Trường thuộc Sơn Hải ngày nay. Muk Buh được báo mộng, bà con Cham qua chỗ ông nằm làm lễ hỏa táng “ông”, thế rồi hằng năm cứ xuống mảnh đất đó cúng tế.
Kể rằng, thời Nhà Nguyễn, khi vua Gia Long kinh lí ngang qua thấy cả khối người Cham tế lễ giữa trời, dừng lại hỏi, mới hiểu chuyện. Nhà vua xuống chiếu cho xây ngôi đền để Cham có chỗ mát mà ngồi, chứ lâu nay bà con cứ giữa nắng Phan Rang, mà lễ, mà khấn coi cũng tội.
Tây đến, kháng chiến lan rộng, cái đền nhỏ bé lọt thỏm giữa bụi cây rậm rạp được Việt minh tranh thủ làm nơi ẩn trú, bị Tây dở phá đi, chỉ còn mỗi cái nền. Cham tiếp tục đến mảnh đất thiêng ấy cúng tế. Sau đó, dù Tây có đi Mỹ có lại, Cộng Hòa đi Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa đến, cứ thế. Mãi khi Nhà nước ta lên Dự án Nhà máy Điện hạt nhân Ninh Thuận 1.
Thì có chuyện.
Mảnh đất rộng cả mẫu không rào không rãnh bị người Việt địa phương lấn làm đầm tôm, rồi chạy Sổ Đỏ, nghĩ bụng biết đâu mình được đền bù giá cao. Đường nhựa chuẩn bị cho Dự án. Rồi khu định cư mới được dựng lên. Máy ủi với tàu thăm dò. Đường dây điện trung thế và hạ thế. Po Riyak cứ teo dần để hôm nay đọng lại chưa tới sào đất. Cả cây Kayo to lớn mà bà con tranh thủ bóng mát hay đặt mâm lễ vật cúng, cũng đã bị bứng đi đâu rồi. Po Riyak chỉ còn trơ trơ mấy mảnh đá ong nhỏ rải rác đây đó, làm chứng tích.
[Lùm chùm-lé là miếng đất hiện nay Po Riyak ở, 2016 – Photo Kiều Maily].
Năm 2011 Inrajaya chạy xe xuống đất Po Riyak lấy ảnh tư liệu. Mấy tấm ảnh tuổi đời chưa lấy gì là cao ấy, không dưng trở nên quý như vàng, không ít bận hân hạnh lên báo… quốc tế.
[Khu tái định cư, 2011 – Photo Inrajaya].
Mùa hè năm ấy, đợi cho bà con hành lễ về hết, tôi một mình chạy xe ngược xuống với Po. Ngồi một mình, ở đó. Bên này là làng mạc, bên kia là bãi cát, với trước mặt là mênh mông biển sóng. Tôi muốn thu vào tầm mắt mình toàn cảnh đất Po Riyak, và thâu nạp vào tâm mình những xung động tình cảm, khi đối mặt với bấp bênh của ngày mai.
Tôi ngồi, với bóng chiều đang xuống. Tôi thấy mình tan chảy ra và trôi đi. Tôi nghe palei Cwah Patih cạnh đó, palei Ia Li-u trên này và cả palei Chakleng quê tôi trôi đi. Trôi đi cùng Po Nai lẫn núi Chà Bang tuổi trẻ tôi mấy bận đi lạc.
Hai năm sau, tôi chạy xe xuống bãi cát Po Riyak lần nữa, xem có cảm giác gì đặc biệt nữa không? Không gì cả, ngoài cảm nhận về cái chết một vùng đất, một nền văn minh, một dân tộc. Ở một tương lai vô định, nhưng không còn bao xa.
Trích Minh triết Cham, nhà xuất bản Tri thức, 2016:
“Cham không quen ghi chép, không quen cất tư liệu, rất thiếu tinh thần thủ kho.
Câu chuyện. Anh Mạnh ở Cwah Patih kể chuyện liên quan đến mảnh đất thờ Po Riyak ở Vĩnh Trường – nơi Dự án Nhà máy Điện hạt nhân Ninh Thuận 1 sắp xây dựng. Sau Rija Nưgar 2015, bà con xuống Vĩnh Trường sớm để phát quang khoảnh chùm-lé nơi [nghe đồn] có Hòn Đá Linga tượng Po Riyak; được một hồi mà chẳng thấy chi. Thế là bà con đành “thỉnh” hòn đá tạm về cạnh đường mòn, hành lễ.
Đó là chuyện thực, chuyện đời mới gay.
Kể rằng một số người Việt địa phương bảo họ đã từng thờ Cá Ông sát cạnh nơi bà con Cham thờ Po Riyak. Có vị còn nói như đinh đóng cột rằng, mảnh đất đó thuộc của họ, chứ không riêng gì của Cham. Cắc cớ và tréo ngoe thế. Cả mẫu đất nay bị ép chỉ còn chưa đầy sào. Từ cụ già đến con nít Cham biết chắc mảnh đất đó là sở hữu của mình, cả hơn chục palei Cham liên quan đều đến mảnh đất thiêng cúng kiếng mỗi năm. Ai cũng biết thế, nhưng làm sao cãi? Và lấy gì chứng thực?
Sử liệu – không, chuyện kể – không, hồ sơ (sử liệu hiện đại) cũng không nốt.
Trong khi để chứng thực một vùng [mảnh] đất nào đó thuộc về mình, cần:
Sử liệu, nghĩa là tài liệu cổ, của mình và người ngoài viết về nó. Ở đây, Po Riyak không có được đặc ân đó.
Chuyện kể, bởi nếu chỉ biết bám vào sử liệu, ta thành duy sử mất; thế một dân tộc chưa có chữ viết hay chưa có truyền thống chép sử thì sao? Chuyện kể cần thiết là vậy. Mảnh đất sở hữu càng nhiều câu chuyện kể về mình càng tốt. Từ người già đến trẻ con đều biết đến chúng. Po Riyak ở Vĩnh Trường khuyết chuyện kể của/ về mình, đã dựa hơi vào Damnưy Po Riyak.”
Dẫu sao, đó vẫn là cách độc đáo nhưng đầy sơ hở của Cham.
Đại tự sự grands récits hay tự sự chủ đạo master narratives là những chuyện kể mà một nền văn hóa hay một dân tộc tường thuật và tin vào. Nó tạo nên tâm thức cộng đồng và duy trì sức mạnh của một nền văn hóa hay một dân tộc.
Nhà thơ Nguyễn Đức Tùng kể trong một cuộc họp với thổ dân da đỏ Canada, đại diện chính quyền tuyên bố vùng đất ở đó thuộc quyền sở hữu nhà nước. Vị trưởng lão hỏi: – Nếu đất đai là của quý ngài, thì quý ngài có câu chuyện nào kể lại cho chúng tôi nghe không? – Không có! Thế là vị này liền đọc một câu chuyện bằng thơ liên quan đến sinh hoạt của người da đỏ hàng trăm năm trước, bằng tiếng địa phương, để chứng minh rằng vùng đất đó là của họ. Dù bằng chữ viết hay truyền miệng, những câu chuyện bao giờ cũng sống lâu hơn cả trong lòng chúng ta, lưu giữ ở đó ánh sáng của mặt trời đã tắt.
Thời hiện đại, ngán nhất là thiếu ảnh tư liệu Cham đang hành lễ. Bởi mới đây thôi, ta cũng không có miếng nào gọi là lưu hồ sơ để làm chứng. Năm ngoái, tôi có dặn Inrajaka đi lễ cùng bà con, Jaka quên béng đi. Lại lo đi Nau Yang ở Chakleng. Nhưng Po Riyak Chakleng làm sao có thể gánh vác nổi sứ mệnh của Po Riyak nguyên bản!
Chiến tranh mất an ninh, đầu thập niên 50, Po Riyak được palei Chakleng thỉnh về cúng kiếng tại làng mình, và được dân làng xem như Thần Tri Thức, nên người Chakleng không còn xuống nơi cũ hành lễ nữa. Po Riyak đã thành Thần Làng của palei. Thế nên bà con ở đây lễ báo ông/ bà Thần trước, sau đó làm lễ Rija Nưgar không có chi là sai nguyên tắc tâm linh cả.
[Po Riyak hóa thân thành Thần Tri Thức ở Chakleng, 2016].
Còn Po Riyak ở dưới kia, thì sao?
Chính phủ Pháp [thực dân], chỉ vì một địa phương nhỏ không chịu, đã buộc phải dẹp chương trình một nhà máy điện hạt nhân; còn ta thì sao? Nên chăng ta suy nghĩ lại, gìn giữ bảo tồn khu vực văn hóa tâm linh quý báu và độc đáo, vừa làm đẹp lòng bà con Cham, và cả người Việt cũng thuận tiện cúng kính, thậm chí còn có thể phát triển du lịch, làm giàu thêm cho văn hóa địa phương.
Nếu bà con chấp thuận dời đi, phần đất [mà có chỉ thuần túy là đất đâu!] cả mẫu kia có được bồi thường không? Và bồi thường thế nào cho xứng?
Còn dời, dời về đâu?
[Nghe nói, sau khi đồng ý [ai đồng ý?] dời Po Riyak đi để dành đất cho Dự án, các vị chức sắc Văn Lâm muốn Po về Bàu Ngứ, còn Cwah Patih và các palei khác thì mong Po về trụ cạnh làng người Việt Hòa Thủy, thích ứng với tinh thần biển của Po hơn. Vậy thì Po sẽ qua đâu?]
Ai, cơ quan nào có thể trả lời thỏa đáng ba câu hỏi thiện chí này?
Rija Nưgar vừa qua, nữ thi sĩ Kiều Maily đã hòa cùng bà con đi Lễ Po Riyak, để bật ra bài viết ngắn với ngổn ngang tâm trạng cùng bao nhiêu ảnh tư liệu quý.
“Kiều Maily: LỄ PÔ RIYAK, LINH THIÊNG MÀ TRẦN TỤC
Ngày 13-4-2016, sáng tinh mơ.
Tôi hòa cùng bà con Chăm xe máy xuống Vĩnh Trường, Sơn Hải, nơi dư tính đặt Nhà máy Điện hạt nhân Ninh Thuận 1, làm lễ. Lễ Pô Riyak hằng năm của Chăm. Tôi mang theo máy ảnh, chuyện dĩ nhiên và đương nhiên. Nhà báo mà!
Ngay khi tới nơi, vừa lấy máy ảnh ra khỏi balô chưa kịp bấm miếng nào, thì một bác công an xã địa phương với vài anh em nghe nói trong ban an ninh chạy đến, vây quanh tôi.
– Không được quay hay chụp ảnh tại đây, một anh nói.
À, No pictures! Tôi hiểu.
Tôi hỏi các anh làm ơn cho biết lý do tại sao? Bà con Chăm đến làm lễ tại nơi thờ phụng tổ tiên mình mà, tổ tiên tôi nữa, sao lại bị cấm hay phải xin phép.
Các anh nói qua loa là trên lệnh thế.
– Chị thông cảm và hiểu cho chúng tôi.
Lại chuyện thông cảm, lạ quá.
Này nhé! Thứ nhất, đây là nơi mà ông bà tổ tiên tôi chôn nhau cắt rốn, là nơi bà con Chăm lặn lội vượt đường dài đến làm lễ cầu an mỗi đầu năm. Lễ Thần Sóng Pô Riyak của chúng tôi. Ai biết bao giờ là bao giờ. Ba, bốn, bảy thế kỉ nữa không chừng… mãi tận hôm nay.
Nữa nè, đây là lễ nghi văn hóa tâm linh, phong tục tập quán ngàn đời, chúng tôi lễ và chúng tôi ghi hình kỉ niệm, có gì là sai ở đây. Để con cháu chúng tôi còn biết lễ này có tồn tại nữa chớ, đúng hôn?
Lẽ các anh phải cảm ơn tôi mới phải, vì hình ảnh kia sẽ lưu lại chẳng những cho Chăm thôi, mà cho cả dân tộc Việt Nam anh chị em nữa. Đoàn kết dân tộc là thế, chứ có ý đồ gì xấu xa ở đây. Bà con người Chăm chúng tôi đã chịu thiệt thòi quá nhiều rồi, chúng tôi nghĩ mình làm phải thì làm, còn vấn đề to lớn quốc gia đại sự khác chúng tôi có hiểu đâu.
Lễ này đã có từ ngàn xưa rồi, đâu phải mãi bây giờ. Thời bình mà, có gì phải phép tắc.
Tôi nói, hay các anh có cái gì sai, thành ra sợ sệt. Chứ bà con Chăm chúng tôi không làm gì sai cả. Cá nhân tôi chụp, quay cũng chả có gì là sai trái.
– Đừng cấm cản nhau là hay nhất, tôi kết thế.
Các anh nói, nếu tôi cần tư liệu gì các anh sẽ cung cấp.
– Tôi có cả khối nè, các anh cần thì tôi cho. Nhà báo mà, sao tôi phải dùng tư liệu người khác, trong khi mình có sẵn.
Ôi, buổi lễ linh thiêng mà phải đi “cãi nhau” với các anh thì long mình giảm đi tính linh thiêng không phải là ít.
Nhưng, biết làm sao bây giờ…”
Buồn không?
Cuối năm ngoái, Thục Quyên [trí thức tranh đấu cho môi sinh, trong đó có Dự án về ĐHN Ninh Thuận], qua trao đổi thư từ, chị bảo vừa đọc bài về Po Riyak trên Champaka. Bài viết cho chị cái cảm tưởng Po Riyak không khác mấy so với tục thờ Cá Ông của người Việt miền Trung. Vậy thì có gì đáng nói đâu. Trong khi lễ cúng Po Riyak của Cham khác tục thờ Cá Ông của Việt xa ít nhất cũng ngàn dặm, chứ không ít.
Tôi chưa đọc bài này, tuy thế nếu bài nghiên cứu cho người đọc [trình độ cao] như chị Thục Quyên cái cảm nghĩ như vậy, thì khá lạc rồi còn gì.
Cuối tháng 2-2016, anh Nguyễn Hùng [một trong ba vị thảo kháng thư về Điện hạt nhân] làm cuộc hành hương [đen] về vùng đất Po Riyak. Gặp nhau lần đầu, dù lòng tôi dường đã nguội lành, nhưng cái nhiệt của anh như muốn đốt cháy tôi trở lại. Tuy thế, anh đã không tiếp cận được với ngài, mà chỉ có thể đứng xa xa mà ngó, mà chụp, quay. Anh qua Việt Nam hơi sớm.
Tiếc không!
[Nguyễn Hùng trên đường thăm Po Riyak, 2016 – Photo Nguyễn Hùng].
Anh chưa được biết Cham có đến mấy Po Riyak. Ngay Po Riyak nguyên bản cũng đã phân thân làm đôi: Po Ong Pô Ông và Po Muk Pô Bà. Po Ong tại vị nơi “chính chủ”, cách bờ biển khoảng 50 mét. Còn Pô Muk dời cư về vùng đất phía Bắc, cách Po Ong hơn ba cây số.
Tại sao? Đơn giản lắm, chiến tranh mất an ninh hoặc do đường xa cuốc bộ mỏi, bà Cả làng đương đi nghỉ mệt, rồi – có thể lắm – mỏi quá không thể tiếp tục hành trình, mới nghĩ ra vụ này. Chủ nghĩa tùy tiện Cham mà, chuyện lớn chả ngán thì ngán gì ba cái lẻ tẻ. Thế là, bà con ơi, hay ta để cho quý ông khỏe chân hơn đi xuống dưới ấy, ta cứ lễ ở đây cũng được rồi. Ba năm thành lệ…
Dẫu sao khu đất Po Riyak nguyên gốc vẫn là thiêng liêng nhất.
Năm ngoái, đoàn người đông đến 300 từ các palei Cwah Patih, Katuh, Ram, Pabblap đi xuống lễ bị “vấn đề” an ninh, mới qua Po Muk cúng tế đỡ. Năm nay, số người giảm xuống còn hai phần, tuy thế bà con vẫn quyết hành hương đến mảnh đất thiêng cho kì được, dù trước đó trên chỉ duyệt cho phép chục người không quá.
– Sao bảo chỉ được mươi người mà đến hơn hai mươi?
– Ừ, thì đường xa, thầy tế già cả cần kẻ thồ đi; còn hành lễ thì không thể thiếu lễ vật phải nhờ đến người chuyên… Chi mà khó khăn dữ hén!
Còn lại, bà con dừng ở Po Muk cúng tế.
Ginang, Baranưng mai tani… Trống Ginăng, Baranưng mang về đây
Biyen, Tiaung mai tani… Điệu Biyền, Tiong sẵn có đây…
Ni, ita tamia… ni, ita dauh… Nào ta cùng múa… này ta cùng hát…
Thơ Inrasara:
Văn hóa Champa là văn hóa đùa vui
Chịu chơi cả trong đau khổ.
Văn hóa Champa là văn hóa đùa vui
Chịu chơi cả trong đau khổ.
Baigaur, mùa Rija Nưgar 2016.
http://inrasara.com/2016/04/16/inrasara-hanh-huong-po-riyak/
Giới thiệu Ariya Po Riyak
Written by Báo Thị Hoa (Hoa Raya) | ||
Saturday, 08 November 2014 09:17 | ||
Po Riyak, «Thần Sóng hay Vua Ðại Dương» là một trong những truyền thuyết rất phổ biến trong văn chương tín ngưỡng của người Chăm. Tên ngài lúc nào cũng hiện diện trong lễ tục Chăm (Katé, Puis, Payak, Rija, v.v.) qua các bài phúng điếu của Ong Kadhar (thầy kéo đờn nhị) và Ong Maduen (trưởng ban nhạc trong lễ Rija). Về truyền thuyết Po Riyak tôi xin đăng lại nguyên bài phân tích của P. Gs. Po Dharma viết về Po Riyak như sau: Truyền thuyết Po Riyak Po Riyak là nhân vật rất đa dạng trong văn chương Chăm. Theo truyền thuyết người Chăm, Po Riyak là nam thần gốc Lào. Tiếc rằng không có tư liệu viết bằng tiếng Chăm nào để mimh chứng cho việc này. Có chăng, người Chăm lẫn lộn với Miến Ðiện, nơi mà truyền thuyết còn nhắc đến Thần Sóng có nguồn gốc từ Champa mang tên là Nats. Cũng theo truyền thuyết này, Po Riyak còn xuất hiện trong vương triều Po Romé (1627-1651). Vào thời điểm đó có một ông bộ trưởng của Po Romé tên là Ja Thameng Kei, sinh vào năm Dậu. Khi chết, Ja Thameng Kei trở thành Nam Thần mang tên là Po Riyak (P. Mus «Etudes Indiennes et Indochinoises. IV . Deux légendes chames» trong BEFEO XXXI, 1931, tr. 39‑101). Ngoài câu truyện truyền khẩu này, Po Riyak cũng là nhân vật rất quen thuộc trong nhiều tác phẩm như Ariya Po Riyak hay các bài phúng ca (Kadha Adaoh) của Ong Kadhar và Ong Maduen trong các lễ tục của người Chăm. Nói về Po Riyak, sách cổ viết bằng tiếng Chăm đưa ra hai nội dung có phần khác biệt nhau. Một số sách cổ Chăm do P. Mus ghi lại, Po Riyak tên thật là Ja Aih Wa, sinh vào ngày thứ ba, mồng 4, tháng 4, năm Tý. Theo tác phẩm Ariya Po Riyak (xem phụ bản), ngài là người Chăm Awal (Bani), gốc làng Pacem, Phan Rí, sang du học ngành pháp thuật ở Makah mà người Mã Lai thường gọi là Serambi Makah, tức là tiểu vương quốc Kelantan của liên bang Mã Lai. Khi nghe tin quê hương ngài lâm vào cảnh loạn lạc vì bị người Jek (Việt Nam) chiếm đóng, ngài quyết định từ bỏ nhà trường để quay về cứu dân cứu nước. Sư phụ của ngài khuyên là chưa nên quay về, vì thiên thần chưa cho phép. Nếu không, ngài sẽ gặp nhiều điều không lành, có thể nguy hại đến tánh mạng. Ngài nhất quyết không nghe. Nửa đêm, ngài quay xuống thuyền làm lễ tạ tội, rồi nhổ neo trở về Panduranga. Khi thuyền ngài đến gần hải phận Champa, trời nổi mây mưa bão tố và cá thần mang tên là Inâ Patrang hay Inâ Katrang đánh vỡ thuyền ngài. Bị chiềm đắm vào lòng đại dương, ngài được cá «ong» (ikan limân) đưa về bờ đất liền ở Gram Pari, Phan Rí. Người Chăm và cả người Việt thấy vậy liền lập đền thờ phụng ngài ở đâỵ Ngược lại, các bài phúng điếu Po Riyak do ong Kadhar xướng ca trong các lễ tục (Katé, Puis, Payak v.v.) và ong Maduen hát trong lễ múa Rija thì cho rằng khi thuyền ngài bị đấm, ngài ngồi trên lưng cá «ong» trở về bờ đất liền. Nhưng ngài từ chối ghé vào Pajai, Phan Rí ngay cả bờ Cà Ná nơi mà người Chăm tìm cách đâm chém và liệng đá vào cá ong chở ngài lên bờ: «Po mai di brok dayep, dak gep ra klep, lac Po Ikan,, Po mai di krâh melam, dak gep ra glam, lac Po Ikan» (CAM 248a, tr. 247). Chính vì thế, ngài phải dừng chân ở Craok Dil, tức là Sơn Hải phía bắc Cà Ná nơi mà người Chăm và Việt lập đền thờ ngài và phúng điếu hàng năm. Ðứng trên phương diện văn chương, truyện Po Riyak không chịu ảnh hưởng gì của Ấn Ðộ như tác phẩm Dewa Mano hay Inra Patra. Ðúng hơn, truyện Po Riyak là một thể loại văn chương thuộc khu vực Ðông Nam Á. Vì rằng, chủ đề Po Riyak ("Thần Sóng hay Thần Ðại Dương") này cũng có mặt trong văn chương Miến Ðiện qua nhân vật mang tên là Nats và trong văn chương Mã Lai qua nhân vật Sri Raya (P. Mus, tr. 70). Cũng như một số nhân vật khác trong bài phúng điếu của lễ tục người Chăm, các tác phẩm viết về Po Riyak không để lại sự kiện gì để xác nhận ông là một nhân vật lịch sử hay không? Vì không ai biết xuất xứ và vai trò của Po Riyak trong quá trình lịch sử của Panduranga như thế nào. Nói như thế, không phải cho rằng Po Riyak là một nhân vật hoang đường. Có thể ông ta là người Chăm Bani thật sự sang Makah (Kelantan, Mã Lai) du học ngành pháp thuật. Khi thuyền ông ta bị chìm, cá «ông» đưa ngài về tận Sơn Hải trước mắt mọi người Chăm. Và chính yếu tố dị thường này đã biến một con người thông thường như ngài trở thành thần linh và người Chăm phong danh cho ngài là Po Riyak, tức là Thần Sóng hay Thần Ðại Dương. Một khi đã thành thần linh, Po Riyak có đủ sự mầu nhiệm để hóa thân thành nhiều nhân vật khác nhau. Sự hóa thân này cũng là sự xuất hiện thường tình trong văn chương vùng Ðông Nam Á, như văn chương Mã Lai mà người ta tìm thấy trong tác phẩm của ông R. O. Winstedt (The History of the Peninsula in Falk-Tales,JSBRAS, số 57, 1911, tr. 183-184). Trong Ariya Po Riyak (xem phụ bản), Po Riyak hóa thân để cưới thêm bà vợ Kaho gốc dân tộc miền núi, sinh ra hai đứa con gái. Po Riyak cũng hóa thân bay tận thế giới thần linh để viếng thăm Po Klaong Garai và hóa thân vào trái lựu của thân mẫu Po Klaong Garai để được sang viếng thăm nước Siam (Thai Lan). Sự hóa thân này dường như có một quy luật riêng của nó, mà trong đó dân tộc miền núi trở thành một yếu tố quan trọng. Thí dụ Po Klaong Garai hóa thân thành Raglai Tawak sau đó thành Po Yang In. Và Ja Aih Wa (tên thật của Po Riyak) hóa thân thành dân tộc Kaho sau đó thành Po Riyak (P. Mus, tr. 72). Tin vào các yếu tố thiêng liêng này, các cư dân Chăm sống về nghề biển hay các thương thuyền Chăm thời trước thờ phụng ngài. Vì mong rằng lỡ họ có tai nạn ở ngoài bể khơi, thì Po Riyak sẽ phù độ và cứu giúp họ. Niềm tin vào thần linh của biển khơi bắt đầu lan tràn sang cộng đồng người Việt, nhất là cư dân sống về nghề biển, để rồi Po Riyak trở thành Thần Ðại Dương qua tục thờ cúng «cá ông» ở Nha Trang, Phan Rang và Phan Rí được kể lại trong bài viết của J. Y Claeys («Le culte de la baleine», trong France Asie 160‑161, 1959, tr. 117‑118) cũng như trong bài viết của Thái Văn Kiểm («Le culte de la baleine», trong BSEI XLVII‑2, 1972, tr. 311‑324). Thêm vào đó, thôn Xuân Hội, Huyện Hòa Ða, Bình Thuận cũng là một địa danh linh thiêng vì có đền thờ Po Riyak. Nơi đây, ngài được nhận chức phong của vua Tự Ðức vào năm 1865, của Ðồng Khánh năm 1886 và của Khải Ðịnh năm 1924. (P. Mus, tr. 69). Po Riyak là một cốt truyện mang nhiều yếu tố văn hóa đa dạng. Mở đầu là yếu tố Hồi Giáo: Po Riyak là Chăm Awal (Bani) sang nước Mã Lai Hồi Giáo du học. Sau đó là yếu tố dân tộc miền núi: Po Riyak lấy vợ Kaho có hai đứa con. Yếu tố tiếp theo là dân tộc Việt: Người Việt ở miền trung hôm nay vẫn còn có tục thờ cá «ông», tức là thờ Po Riyak. Sau cùng là yếu tố Chăm Ahier: Po Riyak vẫn là nhân vật được tôn sùng trong nhiều lễ tục như Katé, Puis, Payak v.v. của Chăm Ahier (P. Mus, tr. 72). Ngoài yếu tố tín ngưỡng, Po Riyak đã trở thành một Nam Thần có tiếng tăm vang dội trong mọi cộng đồng người Việt làm nghề chài lưới. Tại đền Sơn Hải, Phanrang, Po Riyak được phong chức làm Nam Hải Vương «Vua của bể Nam Hải». Tại đền Xuân Hội, Phan Rí, quyền lực của Po Riyak được khắc vào bia ký bằng tiếng Hán mà chúng tôi tạm dịch như sau: «Ðây là Nam Thần. Ngài là thần bảo hộ cho các dân tộc của vương quốc phía nam [Panduranga], một quốc gia có một nền văn minh cao độ. Bầu trời của bể Nam Hải cũng là nơi hội họp của nhiều tàu bè qua lại» (P. Mus, tr. 73). Theo P. Mus (tr. 73), Nam Hải Vương có uy quyền trên mọi người làm nghề chài lưới hay thương thuyền dùng đại dương này làm kế sinh nhai. Mọi thái độ ương ngạnh không tôn trọng uy quyền Po Riyak sẽ trở thành món mồi ngon trong các trận mưa bão mà chủ nhân chính là Thần Po Riyak. Vì quá khiếp sợ trước uy quyền này, cư dân Việt Nam ở miền trung làm nghề chài lưới hay thương thuyền gốc người Trung Hoa thường tin vào Po Riyak là Nam Thần của các người đi biển. Ngoài chức vụ đó, Po Riyak còn có tiếng vang đến các làng chài lưới ở Miến Ðiện, nhất là khu vực Badr'ud Din Auliya (R. C. Temple, Buđermokan do P. Mus trích dẫn, tr. 73). Theo P. Mus (tr. 73), Po Riyak là Nam Thần rất được quý trọng ở khu vực người Việt chài lưới ở Phan Rang so với vùng Phan Rí. Ngược lại người Chăm hôm nay chỉ còn thờ phượng Po Riyak qua các bài phúng điếu chứ không có một lễ tục riêng biệt dành cho ngài như cư dân Việt sống về nghề chài lưới ở miền trung Việt Nam. Nhưng đây là vấn đề dễ hiểu, vì người Chăm kể từ ngày mất nước vào năm 1832 bị vua Minh Mệnh cấm làm nghề đi biển. Ðây là chính sách nhằm cấm đoán dân tộc Champa liên hệ với nước ngoài để vùng dậy đòi độc lập. Kể từ đó, dân tộc Chăm không làm lễ tục riêng để thờ Po Riyak nữa, vì người Chăm không còn ai làm nghề chài lưới. Tóm lại, Po Riyak là truyền thuyết có xuất xứ từ bên ngoài hay nói một cách khác là từ Mã Lai truyền sang. Nếu đọc lại nội dung của cốt truyện Mã Lai mang tựa đề là Sri Raya «Thần Ðại Dương» đăng trong tác phẩm của W. W. Skeat (Malay Magic, London, 1990, tr. 91-92), thì người ta mới thấy Po Riyak chỉ là truyền thuyết sao y bản chánh từ Sri Raya «Thần Ðại Dương» của dân tộc Mã mà thôi. (Po Dharma) Tóm tắc tác phẩm Ariya Po Riyak (theo bản Cam 244) Po Riyak người làng Pacem, là một người thông minh và đức độ (câu 1-2), lại rất ham học. Khi ở trong nước, ông đã gác bỏ chuyện gia đình (o patih gruk sang, câu 3) để theo thầy tìm học. Ông học rất nhiều thầy, và nghe ở đâu có thầy hay, thầy giỏi là ông tìm đến đó để học. Sau cùng thì ông quyết định sang Makah (Kelantan, Malai) để du học. Mục tiêu của ông là để sau này cứu dân giúp nước (câu 4). Thầy thấy ông là một người thông minh, học giỏi, nên truyền đạt cho ông tất cả các môn học (khoa học tự nhiên, triết lý, thuật trị nước...). cũng như các pháp thuật (câu 8). Khi nghe tin trong nước loạn lạc, quân Jek (Ðại Việt) tấn công Champa, lòng ông như sôi sục, ông muốn quay về để cứu dân cứu nước. Thầy ông khuyên ông là chưa nên quay về. Ông không nghe, nửa đêm quay xuống thuyền làm lễ tạ lỗi rồi nhổ neo về nước. Sáng dậy, thầy không thấy ông, biết là ông đã trốn đi và nghĩ rằng ông vô lễ vì đã không nghe theo lời mình nên có lời nguyền: «nếu đi trên nước cá đớp, nếu đi trên rừng rắn cắn, cọp vồ» (câu 27). Không ngờ, lời nguyền của thầy ông trở thành linh ứng. Khi thuyền ông gần tới hải phận Champa, trời đang sáng bỗng tối sầm lại, trời nổi mây mưa rồi làm bão tố, rồi loài thủy quái ina patrang và iya katrang bao vây và tấn công đánh vỡ thuyền ông ra làm hai. Ông ngụp lặn trên biển cả mấy ngày đêm, một con cá “ông” (cá heo) bơi lại đưa ông về bờ Phan Rí. Người Chăm và cả người Việt thấy vậy đều thuần phục, tôn vinh ngài là Po Riyak “Thần Sóng”, rồi lập đền thờ. Cũng kể từ đấy, dân vùng biển, cả Chăm lẫn Việt (nhất là những ngư dân) có lễ tục thờ Po Riyak tức là thờ “Thần Cá Ông”. Vì họ cho ông là hiện thân của loài cá này và chúa tể của loài biển cả. Po Riyak cũng hiện thân như một người bình thường. Ông cưới vợ người Kahaow (Kaho) ở palei Rapat bhum Pacem (làng Rapat Pacem, Phan Rí) và sinh được hai người con gái. Trong lễ tục và việc thờ phượng của người Chăm, Po Riyak được xếp vào Yang Baruw (Thần Mới), được nhân dân Chăm thỉnh cầu trong các lễ rija harei, rija dayep và nhiều lễ hội khác… với thánh danh Ramat Bituk (hay là:Kuramat Dituk nghĩa là người quán xuyến nhiều sự việc của đại dương và là ông vua của biển cả. Người có quyền lực tạo thành mưa, nắng, gió, bão chốn biển khơi và cũng là người phù độ hay cứu giúp mọi người và tàu bè hoạn nạn trên biển cả. http://www.champaka.info/index.php?option=com_content&view=article&id=1145:po-riyak&catid=35:vanhoa&Itemid=29 Posted on Vấn đề Po Riyak. bài 5. Jaya Bahasa: TRUYỆN KỂ VỀ PO RIYAK: VỊ THẦN SÓNG BIỂN CỦA NGƯỜI CHĂMTruyện kể rằng Po Riyak sinh ra và lớn lên ở làng Aia Dak ở khu phố Chăm huyện Tánh Linh tỉnh Bình Thuận ngày nay. Từ nhỏ, Po Riyak đã thể hiện tố chất lanh lợi so với bạn bè cùng trang lứa. Là đứa con lễ phép và hiếu thảo với cha mẹ nhưng Po Riyak lại ít làm các công việc ở gia đình. Po Riyak có ý thức về học vấn nên đã sớm rời xa quê hương đi tìm thầy để học về đạo lý làm người. Điểm dừng chân của Po Riyak là thánh địa Mưkah của đất nước Ả Rập. Ở đó, có thánh đường Hồi giáo Mưkah do các Po Nưbi cai quản. Po Riyak được các Po Nưbi tiếp nhận, dạy dỗ về lịch sử và văn hoá rất ân cần và chu đáo để bồi dưỡng về tri thức. Khi đã hoàn thành chương trình đào tạo về văn hoá và đạo pháp, Po Riyak xin được quay trở về quê hương để giúp đỡ dân làng. Nhưng các Po Gru can ngăn và khuyên răn nên ở lại thêm một thời gian. Thấy như vậy, Po Riyak đành phải nói thật lòng với các Po Gru biết là ở quê nhà đang bị chiến tranh, giặc Ulik đang tàn phá ác liệt, người Chăm rơi vào hoàn cảnh loạn li, áp bức, chết chóc, điêu tàn. Vì vậy, Po Riyak xin phép được sớm trở về đất nước để giúp dân cứu nước. Các Po Gru trả lời với Po Riyak rằng , về đạo pháp thì các thầy đã truyền thụ cho hết rồi. Vận mệnh của dân tộc Chăm là ở ý trời. Lúc này, con trở về là chưa thuận tiện. Nếu ta có cho con đi chăng nữa thì cũng chẳng thay đổi được tình hình gì đâu. Trái lại, con còn phạm phải trọng tội luật lệ của nhà trời do Po Débita sắp đặt. Con hãy ở lại với ta đợi khi nào vận hạn đi qua khỏi rồi hẳn trở về quê hương. Khi Po Gru kiên quyết giữ lại, một mực khuyên bảo không cho đi. Nghe vậy, Po Riyak không ăn không ngủ được, trong lòng lúc nào cũng đau đáu, tim gan nóng hừng hực. Một hôm, trời ngã về đêm Po Riyak lén trốn đi. Bằng cách, lấy tấm ván kết thành thuyền bè thả xuống biển, lấy lá cờ cắm ở đằng trước mũi thuyền, giăng buồm ở đuôi. Trong khi Po Gru vẫn còn đang ngủ say Po Riyak lạy Po Gru 3 lần rồi xuống biển về nước bất chấp lời ngăn cản và chấp nhận mang tội với Po Gru. Sáng sớm thức giấc Po Gru kêu không thấy tiếng trả lời của Po Riyak, đi tìm khắp nơi cũng chẳng thấy đâu. Po Gru làm phép và bói mới biết là người học trò đã tự ý trốn đi rồi, phạm phải những tội lỗi với Po Débita Thuer. Người thầy nguyền rủa cậu học trò vì không chịu vâng lời: “Nếu ngươi đi trên biển thì con cá sẽ đớp, còn đi đường rừng thì con cọp sẽ vồ ăn thịt”. Lời nguyền linh ứng, sóng biển dâng cao. Khi Po Riyak vừa gần bãi biển quê hương thì trên trời bỗng dưng tiếng sấm tiếng sét nổ rền vang cả ngày lẫn đêm. Giông tố, mưa bão đánh tan nát thuyền của Po Riyak ra thành hai khúc. Po Riyak bị tử nạn linh hồn hoá kiếp nhập vào thân hình con cá voi. Po Riyak qua hình dạng con cá voi luỵ vào vùng biển Phan Rí gần làng Chăm sinh sống trên một khu đất cát màu đỏ. Dân làng thấy vậy, lập đền thờ cúng, mang trầu cau, bánh trái đến cầu khẩn. Po Riyak hiển linh, nhập đồng cho biết về gốc tích để dân làng biết mà thờ phượng. Po Riyak đi chu du khắp nơi xem đời sống dân làng quá cơ cực mà chẳng thể giúp đỡ được gì. Rồi, Po Riyak quyết định quay trở lại làng Chăm của mình ở Tánh Linh kết hôn với người con gái Kahaow ở làng Pat sinh được 2 người con trai rồi hoá kiếp thành yang. Ngày nay, người Chăm thờ phượng Po Riyak qua nhiều hình thái khác nhau tuỳ thuộc vào các nghi lễ cúng mà gọi tên huý để khấn xin sự giúp đỡ. Nếu theo hệ thống yang thì thuộc nhóm yang mới. Nếu gọi theo hệ thống cei thì mang tên huý là Cei Traong. Tên gọi trong nghi lễ Rija Dayep là Karamat Bituk. Vua Karamat ở trên các vì sao cai quản khắp đất trời và biển cả mênh mông. Thượng đế cho phép Po Riyak đi xuống trần gian để cứu giúp người dân, phù hộ độ trì cho các ngư dân sinh sống ven biển. Khi ở hạ giới Po Riyak hiện hình qua hình hài con cá voi./. Chú thích: 1. Po Riyak: Po là danh xưng trước tên gọi dành cho thần linh và vua chúa. Riyak có nghĩa trong tiếng Việt là sóng biển. Văn bản viết tay của người Chăm thường viết là Po Riyak hoặc Po Riyak, cả hai cách viết này đều chỉ về một vị thần. 2. Khu phố Chăm: Là một địa danh làng của người Chăm ở huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận. Tiếng Chăm gọi là Palei Pacam. 3. Mưkah: Là tên thánh địa Islam giáo ở vùng tiểu bang Kalentan của liên bang Malaysia. Tuy nhiên, văn bản Chăm nhằm lẫn Mưkah là địa danh Mecca ở nước Ả Rập. Vì tôn trọng văn bản gốc nên chúng tôi giữ nguyên và chỉ dịch sang tiếng Việt theo nguyên tác. Mưkah còn có cách viết và đọc khác là Mâ-kah. 4. Po Nưbi: Là tên thánh gọi chung của người Hồi giáo Bà Ni ở Việt Nam. 5. Po Gru được sử dụng nhằm để ám chỉ người thầy, người đứng đầu trong các hàng giáo phẩm chức sắc người Chăm Bà Ni. 6. Ulik: ám chỉ người Việt vùng đất Châu Ô, Châu Lý ở tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế trước đây thuộc về người Chăm. 7. Po Débita: Tên gọi đầy đủ là Po Débita Thuer. Là vị thần lớn nhất của các vị thần, cai quản trên thiên giới. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét